TRẦN XÁ QUÊ TÔI

Anh Nguyễn Đức Lý là thầy giáo và hiện công tác, sinh sống tại thị trấn Quán Hàu.
Là một người con rất nặng lòng với quê hương làng Trần Xá mặc dù nơi anh sinh ra (nơi chôn rau cắt rốn) là thành phố Đồng Hới. Do chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ phải sơ tán về quê nội nên những năm tháng tuổi thơ gắn bó với làng quê yêu thương này đã để lại trong anh những ký ức không bao giờ phai.
Xin gửi đến quý vị và các bạn bài viết với những ký ức tuổi thơ dữ dội đó.
                                            BAN BIÊN TẬP

CHUYỆN KỂ VỀ BẾN ĐÒ NGANG TRẦN XÁ – HÀ KIÊN

Chẳng ai biết bến đò ngang của Làng Trần Xá sang bên kia sông có tự bao giờ? Nhưng có lẽ trong tiềm thức mỗi người dân của làng Trần Xá thì từ khi có tên làng ắt phải có bến đò ngang. Bởi vì cuộc sống của người dân ngày đó chắc cũng gắn với rừng, lại cách trở một dòng sông nên phải có thuyền, bè để qua lại. Mặt khác các vùng lăng mộ của dân làng ở bên kia đến nay cũng đã ngót mấy trăm năm vẫn còn hiện hữu.

CHUYỆN CHƯA KỂ

Nguyễn Thị Lệ Vinh
Gia đình tôi ở Huế, cách nhà chỉ 3 giờ đi xe ô tô. Tuy đã ngoài 80 tuổi nhưng có dịp tôi lại được con cháu đưa về quê.
Về quê! Về nơi cây đa, bến nước, sân đình, làm sao tôi không khỏi bồi hồi xúc động. Tuổi thơ tôi hiện ùa về như cuốn phim chiếu chậm.
Về quê! Ngôi đình làng uy linh trước mắt, tôi thầm tự hào vì mình là một trong những người đã từng góp công, góp sức cùng bà con dựng xây.
Cũng như tôi, một người con gái của làng sống xa quê mà nỗi lòng khi nào cũng khắc khoải nhớ mong. Đó là chị Định, con bác Quản của tôi. Tuổi ấu thơ được sống trong tình yêu thương của chị, tôi và chị cùng chung một cố, bà nội chị là chị ruột của ông nội tôi. Dãy nhà ông bà và thầy mạ tôi cách nhà ông bà nội chị và các bác chỉ một bước tường. Tôi thường qua chơi với chị, chị em tôi quấn quýt bên nhau.
Những ký ức những kỷ niệm tuổi ấu thơ được tôi mang theo suốt cả cuộc đời. Năm 1947, gia đình chị bị giặc Pháp bắt vì mẹ chị là chị ruột của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chị bỏ học, tôi cũng không được học vì trường làng giải tán, đồn Pháp đóng ngay đầu làng.
Giữa năm 1949, chị tìm gặp tôi ở chiến khu Quảng Ninh vì lúc bấy giờ tôi theo cha mẹ và anh lên chiến khu. Tôi được tiếp tục đi học. Trước đó gia đình chị cũng đã được tổ chức bố trí lên chiến khu.
Đêm trước ngày chị ra Hà Tĩnh học trường B.😭, chị em tôi ôm nhau khóc suốt. Trường B.😭 dành riêng cho con em cán bộ 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Anh Cáo tôi cũng đi ra học trường này, buổi chia tay đầy nước mắt.
Năm 1961, hai chị em mới lại được gặp nhau ở quê nhà, mừng tủi khôn nguôi. Trong suốt 13 năm ấy chị theo đường học tập, hết trong nước lại ra nước ngoài học tiếp. Còn tôi ở lại quê hương học hành chắp nối và chứng kiến hết thảy mọi biến cố của gia đình
Rồi chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ác liệt ở miền Bắc diễn ra, anh Nam chồng tôi có lệnh đi B, chị em tôi người ở Hà Nội người Quảng Bình không thể gặp nhau.
Phải đến hơn 10 năm sau, tôi mới được gặp lại chị. Năm 1973, tôi không thể ngồi yên khi tin chồng biệt tăm biệt tích, tôi vượt quảng đường xa ra Hà Nội đến Ban thống nhất Trung Ương để dò hỏi. Khi biết anh Nam tôi đã hy sinh, hai chị em ôm nhau, nghẹn ngào trong nước mắt, không nói được thành lời. Từ đó, dù chị em công tác mỗi người một nơi, nhưng hàng năm vẫn tìm cách gặp nhau, khi ở Hà Nội, khi ở quê hay ở Huế. Năm 1994, tôi về hưu ở Huế và lúc này chúng tôi có điều kiện đi lại với nhau nhiều hơn.
Những năm chị vào Sài Gòn, kinh tế gia đình chị có thể xếp vào hạng thượng lưu vì con trai chị là tốp đầu của các đại gia trong nước. Chị luôn hối thúc tôi vào thăm chị. Trong một lần vào thăm, hai chị em thả hồn để ký ức tuổi thơ trỗi dậy, để tranh nhau nói về cảnh, về người ở nơi chôn nhau cắt rốn. Tình yêu quê hương, làng xóm dâng lên như sống dậy trong lòng mỗi đứa. Một hôm chị thoáng trầm tư, rồi nói: “Vinh này, em xem làng mình có ai nghèo nhất để chị về xây cho họ một ngôi nhà từ thiện”. Tôi ngồi lặng một hồi lâu rồi nhỏ nhẹ với chị: “Em xa quê đã hơn 50 năm rồi, thực tình em không rõ lắm, mà nhà nghèo đã có chính phủ xây nhà tình thương. Theo em chị nên làm một công trình gì đó cho làng”.
Không khí vẫn trầm lắng, tự nhiên chị nhổm dậy cầm vai tôi lắc mạnh: “Hay chị xây cho làng một ngôi chùa”. Tôi lắc đầu: “Chùa chỉ phục vụ cho một số ít người hay chị hãy xây một ngôi đình làng để thờ thần hoàng, phục vụ cho cả cộng đồng. Em đã từng được xem đình Vạn Ninh, đình Quảng Xá, đình Ba Đồn, đẹp lắm chị ạ”. Chị cũng hào hứng: “Ừ nhỉ! Em có biệt họ xây một ngôi đình kinh phí hết bao nhiêu?”. Tôi cố nhớ: “À! Em nghe nói đình ngoài Ba Đồn hết 5 – 6 tỷ gì đó, có một vị đại gia đứng ra tài trợ”. Chị thở dài, lắc đầu: “Chịu!, chịu thôi!, một mình chị không thể làm nổi!”.
Tôi nói: “Làng ta chỉ xây đình như đình Quảng Xá là được, kinh phí cũng chỉ 2 – 3 tỷ thôi. Hơn nữa chị đâu phải gánh hết, chị là nhà tài trợ chính là được rồi!”.
Câu chuyện đến đó rồi hai chị em không bàn tiếp, nhưng tôi tin chị cũng như tôi ôm ấp một ước mơ vừa được nhen nhúm đó là xây lại đình làng.
Năm 2013, tôi vào Sài Gòn thăm chị, chị rủ tôi đi Vũng Tàu nghỉ mát. Chúng tôi ở trong một khách sạn sang trọng năm sao ngay sát biển đầy đủ tiện nghi cho việc nghỉ ngơi và tắm biển thoải mái. Buổi trưa ngày trả phòng, tôi gọi cho cháu Quyền (con em gái của chồng tôi) báo mợ và ông bà Định sẽ đếm thăm và ăn trưa ở nhà cháu. Bữa cơm hôm đó thật thịnh soạn và đông đủ. Ngoài gia đình Quyền còn có khách mời là cháu Phiên và cháu Thảo là con cháu thân thiết trong gia đình.
Ăn xong cả nhà kéo nhau ra quán cà phê “Phong Nha” vợ chồng cháu Khương Thảo. Các cháu đưa chúng tôi đi một vòng tham quan. “Phong Nha quán” được mô phỏng theo cảnh sắc động Phong Nha của quê hương Quảng Bình thật độc đáo. Chị Định hết lời khen ngợi công trình quá tuyệt vời, gần giống như động Phong Nha ở Quảng Bình. Tôi tiếp lời chị: “Chủ nhân của công trình này giỏi thật, có óc thẩm mỹ cao, giá mà đưa cơ ngơi công trình này về làng mình nhỉ”. Mọi người cười ồ lên vui vẻ. Chị Định nói tiếp: “Ngày trước làng mình cũng có đình, có chùa, có nghè to đẹp, hoành tráng lắm”. Tôi nói chen vào: “Nay o Định có ý tưởng xây đình làng mình đó”.
Mọi người đều tập trung nhìn về phía chị, cháu Phiên hỏi: “Vậy hả O? Nếu làng mình mà có một ngôi đình nữa thì thật tuyệt vời !”. Chị Định nghiêm túc: “Ừ! O có ý tưởng đó từ mấy năm nay, nhưng một mình o không thế làm nổi. O chỉ là nhà tài trợ chính. Năm ngoái o về làng có nói ý đó với anh Thắc, anh Nghĩa, mà không thấy hồi âm”. cháu Phiên tiếp lời: “Thưa O! nếu như O có tâm như thế cháu xin phép đem ý tưởng của o về chắp nối với làng. Cháu hi vọng ý tưởng của o sẽ trở thành hiện thực”.
Một thời gian sau, cháu Phiên về giỗ mẹ đã bàn bạc thống nhất với 5 anh em trai do anh Tùng là anh cả tổ chức bữa tiệc nhỏ mời hệ thống chính trị làng, đai diện các dòng họ và trình bày chuyển tải các nội dung với mọi người ý tưởng của chị Định đến cuộc họp bằng việc cháu Phiên mở loa trao đổi trực tuyến. Kết quả là tất cả đều thống nhất. Sau khi thảo luận sôi nổi, lãnh đạo và cán bộ cốt cán của làng đều hết sức phấn khởi, đồng lòng quyết tâm xây đình làng.
Hàng loạt nội dung công việc được xử lý nhanh chóng như: Thuê thầy địa lý; tìm chọn mô hình kiến trúc; đi tham quan các đình quanh vùng; Thành lập Ban quản lý là anh Nguyễn Đức Nghĩa -Trưởng ban; Anh Nguyễn Văn Rựa, Trưởng làng - Phó ban; Anh Nguyễn Mậu Long hội trưởng hội người cao tuổi của làng - Phó ban; Anh Nguyễn Văn Hòa và anh Nguyễn Văn Lành, Phó làng – Giám sát thi công. Cuộc họp đề nghị cháu Nguyễn Văn Khương em cháu Phiên là Giám đốc Công ty TNHH XD-TM Tân Tiến chủ nhân quán café Phong Nha Vũng Tàu giúp làng thiết kế Đình làng.
Vậy là ước mơ của tôi đề xuất với chị Định được thai nghén trước đây, bây giờ, cháu Phiên chia sẽ giúp sức kết nối đã trở thành hiện thực.
Ban xây dựng đình làng viết thư kêu gọi con em của làng đang công tác trong nước hay nước ngoài gửi tiền về ủng hộ. Bà con trong làng đồng lòng góp tiền, góp công quyết chí để đình làng sớm được hoàn thành.
Ngày khởi công đã được định sẵn, chị Định sẽ gửi tiền ra qua tôi, rồi tôi lại chuyển ra cho anh Nghĩa. Chị gửi từng đợt chứ không gửi trọn gói. Có lần anh Nghĩa cần vài ba trăm triệu, chị chưa kịp gửi, tôi xoay xở gửi ra cho anh Nghĩa để kịp tiến độ công trình. Tổng số tiền chị gửi qua tôi ủng hộ làng xây dựng đình là 1.234.000.000 đồng.
Khi công trình sắp hoàn thành, chị gọi điện hỏi tôi xem nội thất trong đình gồm những gì để chị ủng hộ. Tôi hỏi anh Nghĩa, anh đồng ý và dặn tôi đi tham khảo của đình làng khác để mua sắm cho hợp lý.
Vậy là hàng ngày tôi đạp xe đi xem các đình làng ở Huế. Tôi biết làng Phường Đúc là nơi đúc đồng nổi tiếng ở Huế. Tìm đến nhà nghệ nhân Nguyễn Văn Thuận là hậu duệ dòng họ đúc Cửu Đỉnh cho triều đình nhà Nguyễn, nay các Cửu Đỉnh vẫn chưng thờ ở cung điện Đài Nội - Huế cho khách tham quan. Tôi đặt ông đúc 2 con hạc bằng đồng loại tốt, mỗi con nặng 50kg, 2 con 1 tạ, cao, to, tôi lấy kích cỡ đó là nhờ xem đình ở làng Kim Long – Huế.). Tiếp đến là tôi đặt mua ba bộ Tam sư, Ngũ sự. Bộ thờ gian chính phải to, cao để tương xứng với hai con hạc đứng chầu. Tôi đặt đúc cái thanh la to, dày bằng đồng loại tốt, không pha tạp chất đánh lên có tiếng ngân rung xa để tôi ủng hộ làng.
Tiếp nữa là đặt mua mấy cặp lộng và bộ bát bộ gươm, giáo, mác để thờ các vị thần bảo vệ dân làng và các thứ lặt vặt khác. Mua sắm xong tôi đưa về nhà cất giữ, đợi anh Nghĩa báo hoàn thành đình sẽ đưa ra.
Khi nhận điện anh Nghĩa, tôi thuê hẳn một chuyến xe chở toàn bộ nào hạc
nào lư đèn, gươm, giáo về đình. Tôi lên xe mà lòng tràn ngập phấn khởi. Thế là ngôi đình tôi mơ ước nay đã trở thành hiện thực.
Xe đến, bà con chờ sẵn, ùa ra, vừa cười, hớn hở, kẻ khiêng người vác, nhìn ai cũng rạng rỡ. Đặc biệt anh Nghĩa cứ níu tay tôi mà lay, rối rít mừng vui: “Cảm ơn Lệ Vinh, cảm ơn Lệ Vinh, hai con hạc Lệ Vinh mua to, đẹp quá, không ngờ đấy”. (Anh thường gọi tôi bằng tên cho thân mật). Nhìn các anh vui vẻ hồ hởi, ai cũng hỏi han tôi, hỏi tôi đi đường có mệt không? Khen tôi đã lo lắng cho làng, thế mới xứng là con gái làng Trần Xá chứ. Tôi cảm thấy thật sự hạnh phúc, mọi nỗi mệt nhọc lo lắng đều tan biến.
Mặc dù đã muộn nhưng anh Uy – Bí thư Đảng ủy, anh Rựa, anh Long và một số anh em khác ở lại cả trưa để lắp hoàn thành hai con hạc và đôi lư đồng (vì khi di chuyển hạc phải tháo rời ra, tránh va đập). Làm xong, các anh thỉnh lên bàn thờ. Lồng đèn, cờ quạt, gươm giáo đều được trương vào đúng vị trí. Mọi người đều trầm trồ: “Đẹp quá”. Tội nghiệp, trưa nay không ai về ăn cơm mà không thấy đói. Bà con ai cũng tất bật, bận rộn chuẩn bị cho buổi tế đình tối nay. Ngày mai làm lễ khánh thành đình, bà con xa gần sẽ về đông đủ, gia đình chị Định cũng đã ra rồi. Cả làng náo nức chuẩn bị cho một ngày lễ lớn: “Lễ khánh thành đình làng”.
Tối đến từ đầu làng, cuối xóm, cả đường quan, sân đình, ban công đình đều sáng trưng. Cả một vùng quê sáng rực, đặc biệt trong đình, điện, màu nhấp nháy, bức hoành phi sơn son thiếp vàng, các bộ lư đồng sáng bóng, hạc chầu ánh màu đồng mới lấp lánh. Mùi trầm hương thơm ngát lan tỏa cả không gian, tất cả đều trở nên lung linh huyền ảo. Các chức sắc của làng, áo mũ, đại lễ chỉnh tề vòng tay đứng đợi. Bà con đứng chật cả sân đình.
Buổi lễ bắt đầu, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thanh la dóng lên từng hồi, tiếng tế thần của các vị chức sắc rền vang, một âm thanh thiêng liêng tôn kính. Ai nấy đều chấp tay cúi đầu vái lạy.
Gia đình chị Định đã có mặt trong buổi lễ. Môt tình cảm thiêng liêng nồng ấm tràn ngập tâm hồn chị. Chị luôn miệng khen: “Đẹp quá! hoành tráng quá! hai con hạc bề thế quá”. Chị nói: “Chị không ngờ em lo cho chị tuyệt vời đến thế”. Chị kéo tay tôi đi bái lạy các bàn thờ. Đến lạy bàn thờ liệt sĩ, chị rơm rớm nước mắt, ở đó có anh Nam – chồng tôi là bạn thân của chị. Hai chị em đứng hầu bàn thờ chính cho đến hết buổi lễ. Lễ kéo dài đến tận khuya, đêm nay cả làng không ngủ!.
Sáng ngày 20/1/2014, làng làm lễ khánh thành đình làng. Lễ khánh thành cũng trang trọng không kém gì lễ tế đình. Tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thanh la, dóng lên từng hồi rộn rã.
Bà con đã tề tựu đông đủ từ sáng sớm. Anh Nguyễn Văn Hòa - Trưởng ban tổ chức, anh Nguyễn Đức Nghĩa - Trưởng ban công trình lên báo cáo kinh phí và công cán của bà con, con em của làng đóng góp, trong đó làng tỏ lòng cảm ơn gia đình chị Định là nhà tài trợ chính. Báo cáo rõ ràng minh bạch, bà con vỗ tay tán thưởng vang rền còn hơn cả pháo.
Tiếp đến anh Nguyễn Văn Chiểu đọc diễn văn thay mặt 25 dòng họ và cảm
ơn làng đã rước 25 dòng họ về thờ ở đình. Đến lượt tôi đại diện cho 53 gia đình liệt sĩ đọc diễn văn cảm tạ làng đã đưa 53 vị liệt sĩ của làng về thờ.
Rồi chị Định lên phát biểu, chị vô cùng xúc động và biết ơn làng đã ghi tên gia đình chị vào sổ vàng danh dự của làng. Về phần mình chỉ khiêm tốn thưa với làng có chút lòng thành cùng bà con cả làng đóng góp xây dựng đình làng. Tôi thẩm nghĩ nếu không có chị chắc gì đình làng có được như thế này. Cũng như bà con trong làng chắc chắn ai cũng thật sự cảm ơn gia đình chị.
Trời đã gần trưa, mâm cỗ được dọn ra ở nhà văn hóa và ở sân đình. Tiếng mời chào, tiếng chạm cốc lách cách, tiếng nói cười vui vẻ. Có người xa quê đã lâu, nay có dịp mới gặp nhau, tay bắt mặt mừng, như thế mới biết tình làng nghĩa xóm sâu đậm biết nhường nào.
Quá vui nên tiệc liên hoan khánh thành đình kéo dài mãi đến xế chiều mới kết thúc để chuẩn bị cho chương trình văn nghệ.
Sương bắt đầu rơi, màn đêm bắt đầu chiếm cảnh vật , mọi người đã tập trung cười nói râm ran và đứng chật cả sân đình. Chả là văn nghệ làng Trần Xá có tiếng là hay và nay cũng là lễ hội khánh thành thành đình làng. Dân của các làng bên cũng kéo về vừa để xem văn nghệ vừa để chia vui cùng dân làng, và chiêm ngưỡng sự uy nghi hoành tránh của đình làng.
Buổi biểu diễn bắt đầu khi tấm màn nhung được kéo ra trong tiếng nhạc vang lên rộn rã với sân khấu rực rỡ màu sắc đèn chiếu sáng. Các tiết mục được lần lượt trình bày. Tuy là “cây nhà lá vườn” nhưng các “diễn viên” diễn xuất khá tốt, tiếng vỗ tay tán thưởng nổ vang như sấm.
Chị Định có mời các nghệ sỹ từ Sài Gòn ra tham gia biểu diễn, hát, múa quạt, múa kiếm rất điêu luyện xem mới mãn nhãn làm sao. Từng tràng pháo tay kéo dài không ngớt. Buổi biểu diễn kết thúc, mọi người nối bước ra về với bao lời khen tấm tắc.
Sáng hôm sau, ngày 21/1/2014 tôi mời anh Nghĩa và chị Định ra bờ sông ngồi hóng mát. Chả là tôi muốn báo cáo lại tất cả vai trò làm cầu nối trung gian giữa chị và anh Nghĩa. Anh Nghĩa nhìn tôi cười: “Lệ Vinh cẩn thận, chu đáo và chi tiết quá nhỉ. em làm anh ngạc nhiên quá”. Chị Định tiếp lời anh Nghĩa: “Em Lệ Vinh là trợ lý đắc lực tin cậy của tôi đấy. Chính em là người đầu tiên gieo vào đầu tôi ý tưởng xây dựng đình làng mình đó nha”. Rồi chị phân bua: “Thực ra mình chỉ đóng góp môt phần kinh phí nhưng nhờ sự đồng lòng quyết tâm của bà con, kẻ có công người có của, cũng như Nghĩa và em Vinh đó. Nay đình làng bề thế, uy nghi, để lại cho con cháu mai sau Định thỏa mãn lắm Nghĩa à”. Ba chúng tôi nhìn nhau cười thỏa nguyện.
Anh Nghĩa dẫn chị em chúng tôi thả bách bộ trên con đường ven sông phẳng lỳ sạch đẹp. Gió thổi nhẹ, ánh nắng ban mai bao trùm lên vạn vật một màu vàng nhạt, không khí ở làng quê thật trong lành mát mẻ. Nhìn dòng sông Nhật Lệ những gợn sóng lăn tăn được tạo nên sau cơn gió nhẹ thổi về. Chiếc thuyền ai rẽ nước lướt đi để lại một vệt dài bọt trắng xóa giữa dòng song rộng mênh mong. Bờ bên kia xa xa là dãy núi Trường Sơn xanh thẩm, nhấp nhô chạy dài như một bức trường thành kiên cố. Đàn cò trắng phao phao bay lên từ bãi bần Long Đại đang lững lờ nghiêng mình chao cánh trong ánh nắng ban mai. Cả ba chúng tôi đều thốt lên “Ôi! đẹp quá!”.
Cảnh vật quê tôi đẹp thật, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Tôi đưa máy điện thoại lên chụp liên tiếp. Chúng tôi vừa rảo bước vừa tiếp tục câu chuyện, Ánh nắng vàng xuyên qua kẽ lá mặt trời đã lên cao, anh Nghĩa mời chị em tôi vào nhà anh nghỉ và dùng bữa cơm trưa. Hai chị em vui vẻ nhận lời.
Kỷ niệm về câu chuyện xây dựng đình làng cứ chất chứa trong tôi “Chuyện chưa kể” giờ mới được giải tỏa. Xin mạo muội viết đôi lời cùng độc giả bởi nhờ việc xây đình làng Trần Xá mà đến nay xã Hàm Ninh quê tôi đã có 3 ngôi đình của 3 làng là Trần Xá, Quyết Tiến và Trường Niên.
                                      Huế, ngày 15 tháng 02 năm 2021
                                           Nguyễn Thị Lệ Vinh

TƯỞNG NHỚ ĐỒNG ĐỘI TÔI

Anh Nguyễn Đức Hợi, người con ưu tú của làng Trần Xá, người chiến sỹ kiên trung đã chiến đấu và bị thương tích đầy mình trong mùa hè đỏ lửa nơi chiến trường Thành Cổ Quảng Trị năm 1972 và là một trong những người làng Trần Xá đầu tiên có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn ngày 30/4/1975 đã vinh biệt chúng ta ra đi mãi mãi ngày 15/6/2022 sau thời gian chiến đấu với bệnh tật và những vết thương tái phát.

Nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 – 27/7/2022), BBT xin giới thiệu đến quý vị bài thơ “Tưởng nhớ đồng đội tôi” của tác giả Nguyễn Thanh Tùng như một nén tâm nhang thắp cho anh Nguyễn Đức Hợi và những anh hùng liệt sỹ đã hy sinh cho nền độc lập tự do của dân tộc.
                              Trân trọng!
                          BAN BIÊN TẬP

Là những người lính cùng Tiểu đoàn 46 Trung đoàn 185, những bạn bè, đồng đội của tôi ở Đại đội 1 đã được lệnh hành quân đi chiến đấu vào "Mùa hè đỏ lửa" năm 1972. Hầu hết trong số họ đã anh dũng hy sinh trong những trận đánh ác liệt tại Thành Cổ Quảng Trị khi cả Đại đội chỉ còn lại 5 người trở về.
Tôi viết những dòng thơ này như là một nén tâm nhang xin gửi đến anh linh những liệt sỹ Đại đội 1 đã cống hiến cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc thân yêu.
Thành kính nghiêng mình.
Tháng bảy về sao bỗng thấy nôn nao
Nhớ đồng đội tôi năm nào thuở ấy
Bốn sáu năm ký ức giờ trỗi dậy
Để nghẹn ngào lòng thương nhớ xiết bao.
Tháng tám bảy hai, nắng lửa gió Lào
Đại đội(1) hành quân vào Nam chiến đấu
Dù lính mới vì tổ quốc yêu dấu
Có sá chi xin hiến cả máu đào.
Quảng Trị đây rồi, Thành Cổ gian lao
Không gian chuyển rung bom đào đạn xới
Tiếng nổ xé toang, khói cuộn ngút trời
Mặt đất như thiêu, lửa cháy khắp nơi.
Giữa ngã ba bom(2) C(3) ta chốt đợi
Đánh tan xe tăng phi pháo bộ binh
Dù B52 ném trúng đội hình
Đồng đội hy sinh, người còn quyết giữ.
Thành Cổ thiêng liêng trở thành bất tử
Nơi anh gửi lại cả tuổi thanh xuân
Bởi hè bảy hai sau bao trận đánh
Còn 5 người(4) về thương tích đầy thân.
Những người anh hùng C1 vinh danh
Anh Hợi, anh Trường(5) quê ta Trần Xá
Chiến tranh đã qua, lùi xa tất cả
Nhưng thẵm trong tôi là đồng đội thân yêu(6).
                                 Ngày 23 tháng 7 năm 2018
                                    Nguyễn Thanh Tùng


(1): Đại đội 1: là  Đại đội 1 Tiểu đoàn 46, Trung đoàn 185 được bổ sung cho Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B tháng 8 năm 1972 để tham gia chiến dịch Quảng Trị năm 1972;
(2): Ngã ba bom: Ngã ba Long Hưng – Chốt bảo vệ Thành Cổ phía Nam, nơi nhiều đơn vị hy sinh để bám trụ bảo vệ Thành Cổ trong đó có Đại đội 1;
(3) C: Tên gọi và viết tắt của Đại đội;
(4) (5): Những người Đại đội 1 còn sống sau trận đánh là:
- Đồng chí Lê Vân - quê Bố Trạch: Nguyên Đại đội trưởng Đại đội 1. Sau trận đánh khi quân số tiếp viện được bổ sung, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2 và chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến dịch;
- Đồng chí Nguyễn Đức Hợi - quê Trần Xá (thân sinh là cụ Nguyễn Đức Uyên, anh trai là Nguyễn Đức Mến): Nguyên y sỹ Đại đội 1. Sau trận đánh khi quân số tiếp viện được bổ sung, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Chính trị viên Đại đội 1 và chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến dịch;
- Đồng chí Nguyễn Văn Trường - quê Trần Xá (thân sinh là cụ Nguyễn Văn Mợng, em trai là Nguyễn Văn Thí): Nguyên chiến sỹ nuôi quân Đại đội 1. Sau trận đánh khi quân số tiếp viện được bổ sung, đồng chí được bổ nhiệm chức vụ Trung đội trưởng Đại đội 1 và chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến dịch;
- Đồng chí Trần Văn Sơn – quê Nam Lý, đồng chí  Lê Văn Lai  - quê Lộc Đại, là chiến sỹ Đại đội 1. Sau trận đánh hai đồng chí bị thương nên được chuyển về tuyến sau;
(6): Tác giả là đồng đội cùng Tiểu đoàn 46 Trung đoàn 185. Những tư liệu về Đại đội 1 trong những ngày chiến đấu ở Thành Cổ Quảng Trị do anh Nguyễn Đức Hợi cung cấp. Sau khi ra quân anh chuyển ngành về làm việc và sinh sống cho đến nay tại thành phố Đồng Hới.
 
1

2
3
4
Anh Nguyễn Đức Hợi và các đồng đội, anh Hợi đứng thứ 6 từ trái sang (đứng sau bên phải đồng chí đeo kính)

TỰ HÀO QUÊ HƯƠNG, TỰ HÀO WEBSITE LÀNG TRẦN XÁ    

Bước vào tuổi 71, tôi rất vinh dự được mời dự buổi gặp mặt của lãnh đạo làng, ban biên tập, tác giả và khách mời website langtranxa.vn nhân kỷ niệm 8 năm ra đời trang website.