CHUYỆN KỂ VỀ BẾN ĐÒ NGANG TRẦN XÁ – HÀ KIÊN

Chẳng ai biết bến đò ngang của Làng Trần Xá sang bên kia sông có tự bao giờ? Nhưng có lẽ trong tiềm thức mỗi người dân của làng Trần Xá thì từ khi có tên làng ắt phải có bến đò ngang. Bởi vì cuộc sống của người dân ngày đó chắc cũng gắn với rừng, lại cách trở một dòng sông nên phải có thuyền, bè để qua lại. Mặt khác các vùng lăng mộ của dân làng ở bên kia đến nay cũng đã ngót mấy trăm năm vẫn còn hiện hữu.
Thời xa xưa thì chẳng ai biết và cũng không còn nhân chứng. Nhưng theo như những người còn sống, đã chứng kiến và kể lại rằng: Trước những năm của thập kỷ 1930 họ không rõ, nhưng từ những năm của thập kỷ 1940 đến nay họ đã chứng kiến và vẫn còn nhớ. Mặc dù các mốc thời gian của từng người đưa đò có thể chưa thật chính xác và cũng có thể còn thiếu sót, nhưng dù sao đó cũng là những minh chứng của một bến đò và những lớp người kế tiếp nhau một thời chịu thương, chịu khó, cần mẫn đưa những chuyến đò mang nặng nghĩa tình giúp người dân làng Trần Xá qua lại mưu sinh.
Theo lời kể của cụ ông Nguyễn Văn Tuân năm nay đã 92 tuổi, cùng một số người đã từng đưa đò hiện còn sống như ông Rý và một số người con của các ông đã tham gia đưa đò như anh Khâm (con ông Uông), anh Nguyên (con ông Đẳng), anh Luyến (con ông Hạ) kể lại rằng:
PHẦN I: SƠ LƯỢC VỀ BẾN ĐÒ NGANG VÀ NHỮNG NGƯỜI ĐƯA ĐÒ.
1/ Từ năm 1946 trở về trước bến đò nằm trước bến nhà anh Nguyễn Văn An bây giờ (An em ông Lệ), do ông Nguyễn Văn Lọng (ông Ngoại của chú Hùng - Tý) chèo và gọi là bến đò ông Lọng.
2/ Từ năm 1946 đên thời kỳ Giảm tô, cải cách (vào khoảng năm 1956) ông Phạm Văn Muột (tên con gái đầu) (ông nội của chị Phụng, chị Dưỡng) từ Rào Đá về nhận chèo đò ngang và được gọi là bến đò ông Muột. Thời đó dọc ven sông từ chợ hiện tại về dưới xóm Hà Kiên cây cối cao to, rậm rạp nên ông phải làm một cái chòi cao để ở lại nhằm phục vụ bà con đi lại. Thời đó người chèo đò ngang chỉ lấy thóc hoặc gạo và chủ yếu đưa người dân qua lại lấy củi, lấy gỗ, tranh để về làm nhà, mưu sinh cho cuộc sống hàng ngày.
Trong 10 năm đó có một thời gian giặc pháp về đóng đồn ở đầu làng nó cấm chèo đò vì sợ đưa Việt minh qua lại về làng. Mặc dù vậy nhưng đêm đêm mỗi khi có người của Việt minh ẩn nấp hoạt động ở bên Khe Chuối về ông cũng đưa họ về để nắm tình hình và lấy lương thực. sau cuối năm 1956 thì ông nghỉ chèo.
3/ Từ năm 1957 – 1961 bà Nguyễn Thị Thỏn (mẹ ông Hướng) chèo.
4/ Từ năm 1962 – 1965 ông Nguyễn Văn Lội (bố ông Tập) nhận chèo. Trong thời gian ông Lội chèo ông rất nhiệt tình, chịu khó và ông đã nói: “Một người tôi cũng trèo, hai người tôi cũng trèo” (do hơi ngọng nên từ chèo thành từ trèo) mà mãi đến bây giờ nhiều người vẫn còn nhớ. Đến năm 1966 – 1974 ông lên chèo đò ngang từ trước nhà ông No (ông ngoại cô Loan) để đưa bộ đội, TNXP, và khách sang bên Hiền Ninh.
5/ Từ năm 1966 – 1971 ông Lê văn Đẳng (bố anh Nguyên) nhận chèo.
Giai đoạn từ 1967 – 1971 máy bay Mỹ đánh phá ác liệt ở làng nên làng phải dời ra kênh dọc và kênh ngang làm hầm ở (khoảng hơn 1 năm: 1968 - 1969) nên việc chèo đò ngang cũng thưa thớt.
6/ Từ 1970 – 1973 ông Nguyễn Đức Hạ nhận chèo trong vòng 3 năm, sau đó ông lên bến đò đầu làng chèo. Lúc đó X74 đang đóng tại bên Hà Kiên.
7/ Từ 1973 – 1975 ông Hoàng Trọng Sỏ (bố anh Thiệp) chèo. Sau mấy năm chèo đến Tết dương lịch 1976 không may khi thuyền gần đến bên kia bờ bỗng có một con sóng xô thuyền lật chìm làm 6 người thiệt mạng gồm (Bà Thẹt mẹ anh Thỏa, o Đoài con ông Quảng, O Thì con ông Tấn, o Tư con ông Tàng, con bà Khiêu, con ông Tắc) nên ông phải bị đi tù. Khi tòa án phán ông được hưởng tù treo, do ông không hiểu tù treo là gì, cứ tưởng tù treo là bị treo nên ông xin tòa được cho tù ngồi. Chuyện có thật 100% đấy mọi người ạ. Một câu chuyện tuy buồn cười nhưng thật đau lòng vì lúc đó gia đình ông thật sự rất khó khăn, vợ yếu con đông chỉ dựa vào một mình ông là lao động chính của gia đình.
8/ Khi ông Sỏ đi tù, ông Nguyễn Văn Uông (bố anh Khâm, anh Tĩnh) làm việc ở nông trường Đại giang (Trường Thủy) về nghỉ chế độ và nhận chèo đò ngang trong khoảng từ năm 1976 – 1990. Lúc này bến đò đã được chuyển lên trước bến của ông do ở phía dưới cát bồi lấp bị cạn. Hồi đó ở đó có một cây đa thật to (khoảng 3 người lớn ôm) cành lá sum sê rất đẹp và mát. Nhưng đến năm 1995 bị bão nên đã đổ sập.
9/ Từ 1991 – 1996 ông Mai Văn Sơn (bố anh Nam (đen)) chèo. Từ đây bến đò lại được chuyển lên bến 2 cây đa cho đến bây giờ (2 cây đa thật to nhưng nay đã chết. một cây chết từ những năm 1970, còn một cây chết trong khoảng thời ngian năm 2004). Ông Sơn là một người chèo giỏi và rất tích cực, bất kể mưa to, gió lớn ông cũng cố gắng đưa mọi người qua lại. Ngoài chèo đò ngang, cứ mỗi dịp đua thuyền ông còn là một người cầm lái cừ khôi nên thuyền đua của làng khi nào cũng được xếp tốp đầu của làng (đua làng) và của xã (đua xã).
10/ Từ 1997 – 2002 anh Phạm văn Đàn (chồng bà Lệ). Bắt đầu từ đây anh Đàn đã sắm đò máy nên vừa nhanh, vừa đỡ tốn sức người.
Khoảng từ thời gian này về sau điều kiện kinh tế đã có phần được nâng cao nên việc người đi củi, đốt than, lấy mây, song và nhất là việc bứt tranh đã được giảm nhiều, chỉ còn một số ít người còn duy trì củi, rào cho đến bây giờ.
11/ Từ 2002 -2007 ông Nguyễn Văn Rý mua lại một chiếc thuyền máy được làng giao cho vừa chạy đò ngang, vừa thu tiền khai thác cát, sạn ở đầu cồn nổi.
Trong khoảng thời gian này phía Hà Kiên cũng cử anh Thường (cụt tay) chịu trách nhiệm chạy đò đưa học sinh sang bên này học và đưa dân Hà Kiên qua lại. Thỉnh thoảng cũng giúp đỡ người dân làng Trần xá, cán bộ xã qua lại, ngoài ra cũng giúp đỡ làng Trần Xá chuẩn bị đò, phụ ghép đò cho các đám tang của dân làng.
Từ anh Đàn đến ông Rý lúc này người đưa đò đã thu tiền của người qua lại.
Từ năm 1999 – 2002 khi cây đa trên còn sống được các anh chị em ở Vũng Tàu đóng góp kinh phí để kè lại gốc cây đa chống xói lở. Cũng trong khoảng thời gian này ông nguyễn Văn Quê cùng các anh chị em trong xóm trồng thêm một cây đa ở phía dưới nhằm làm cho cảnh quan bến đò sau này thêm đẹp và mát.
Cũng trong thời gian này khoảng vào năm 2005 bến đò Trần Xá được con em quê hương tại cộng hòa Séc hỗ trợi kinh phí để xây kè bến bằng bê tông và duy trì cho đến bây giờ. Ngoài ra còn hỗ trợ cho Hà Kiên để xây một đoạn bến bằng bê tông để người qua lại đỡ phải lội bùn, xe cộ lên xuống thuận lợi. Sau này tiếp tục nhờ công sức của nhân dân và của nhà nước hỗ trợ xây dựng thêm nên bến đò ngày càng khang trang, lại được vợ chồng anh Khương, chị Thảo ở Vũng Tàu tặng 4 cái ghế đá cho mọi người ngồi nghỉ. Rồi cũng khoảng trong thời gian này hội Người cao tuổi của làng trồng thêm một cây đa sát với đường xuống bến (gọi là cây đa giữa); sau đó ít năm anh Nguyễn Văn Khành (con ông Quê) lại tiếp tục trồng thêm một cây đa ở phía trên. Cả ba cây đa đều có sức sống mãnh liệt, tương lai vài thập kỷ sau sẽ rất đẹp và là nơi cho mọi người đến nghỉ ngơi khi mùa hè đến.
Từ đó đến nay bến đò ngày càng thêm đẹp, tạo cho một bến đò ngang trở thành một điểm giao thương gắn với chợ Trần Xá, trên bến, dưới thuyền, người xa quê về, khách phương xa đến không thể không ghé thăm.
12/ Bắt đầu từ năm 2007 đến nay UBND xã đưa bến đò ngang cho mọi người ai có nhu cầu đứng ra đấu thầu. Anh Võ Văn Vững ở Hà Kiên đã đấu trúng hơn 2 nhiệm kỳ (từ 2007 - 2020). Lúc này xã hội đã phát triển, cuộc sống đã được cải thiện, xe máy khá nhiều và khách qua lại khá đông nên anh đã sắm chiếc đò phà để xe máy lên xuống  và mỗi khi có đám tang cũng được thuận lợi.
13/ Năm 2020 UBND xã tổ chức đấu thầu lại và anh Võ Văn Tuynh ở Hà Kiên trúng thầu và chạy cho đến bây giờ.
Sau hơn 76 năm bến đò ngang Trần Xá – Hà Kiên phải chuyển dời qua 3 địa điểm, và trải qua 13 người kế tiếp nhau đưa đò. Nhìn chung ai cũng cần cù, chịu khó, ai cũng nhiệt tình và có trách nhiệm. Nhiều lúc mưa to, gió lớn về mùa mưa bão hay về mùa gió Nam cồ họ vẫn kiên trì, nhẫn nại vì mỗi người dân, người khách qua lại.
Đặc biệt khi chưa có thuyền phà họ là những người giúp chuẩn bị thêm đò để ghép đò đôi phục vụ các đám tang của dân làng. Họ là những người lái đò thầm lặng, không cần công trạng, không cần lời khen, họ thành tâm vì cuộc sống mưu sinh của mọi người dân làng Trần Xá, Hà Kiên và những khách vãng lai qua lại.
Cũng nhờ những người đưa đò thầm lặng mà đã giúp dân làng vượt qua những giai đoạn nghèo khó nhất.
PHẦN II: ĐÔI NÉT VỀ CUỘC SỐNG DÂN TA THỜI GIAN ĐÓ.
Còn nhớ từ khi hòa bình lập lại (1954) đến khi hết thời kỳ bao cấp (1986) cuộc sống người dân rất vất vả, khó khăn. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, mọi thứ đều thiếu thốn, nhà cửa chủ yếu nhà tranh vách đất. Cuộc sống dân ta chủ yếu dựa vào rừng: Rừng cho ta củi, cho ta than, cho ta gỗ lạt, mây song, tranh, tre, nứa, lá .v.v. để dựng nhà, dựng cửa, làm giàn bầu, bí, .v.v. kể cả rừng giúp ta những loại ăn thay cơm như hạt dẻ, hạt sót, hạt cụ, hồng, sim, dâu, củ mài, v.v. giúp người dân cứu đói và có thu nhập phục vụ sinh hoạt hàng ngày, dựng nhà dựng cửa, sắm sửa áo quần, sách vở cho con cái ăn học.
Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt (từ 1968 - 1971) rừng giúp ta cọc gỗ để làm hầm chéo trú ẩn bom đạn.
Trẻ thơ thời đó cũng hiểu được hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên hầu hết đến  khoảng 10 tuổi trở lên đã biết sang rừng lấy củi phụ giúp gia đình. Buổi đi học, buổi chăn trâu, cắt cỏ, mò cua bắt ốc hay đi củi, rào, hái sim, .v.v.
Những địa danh mà đến bây giờ lớp người từ U50 trở lên ai cũng vẫn còn nhớ như Đôộng Trữa, Ba Đôốc, Đường Dây, Kim Sen, khe Chuối, Khe Đá Bạc, Khe Cành Sục, khe cành Nạng, Đôốc Lớt, đường Trấy Căng, .v.v. hoặc thuê thuyền theo sông Long Đại lên Lùi, Khe Su, Cập, Nước Đắng, .v.v. để lấy gỗ, mây, song, củi, tranh, .v.v.
Một thời thật “náo nhiệt” vào lúc khoảng từ 4 giờ sáng những tiếng gọi nhau í ới, những tiếng xóc, rựa, nón, mũ lộp cộp ở ngoài đường, đến ngồi chờ ở bến đò. Ai cũng mong được qua sớm cho đỡ nắng, làm việc năng suất hơn, nên ai cũng lội chen nhau. Khi  ngồi chờ đò trên những cái rễ cây đa nổi lên ngoằn ngoèo như những con trăn lại bị chi chít những nhát băm của một số cô cậu máy tay chặt, băm.
Leo dốc thì mệt bở hơi tai, vào đến nơi là hì hục chặt, đốn, gọi nhau bó rồi rủ nhau gánh về, tiếng ồn vang một khoảng rừng. đôi vai người nào cũng chai sạn u lên. Khi về dọc đường lên, xuống dốc, nắng rát mặt, khát nước cháy khô cả cổ họng, mệt bở cả hơi tai mà vẫn còn đùa nhau. Khi đò sang chưa kịp vào bờ ai cũng muốn chen lên đò thật nhanh để về trước, có người gánh cả gánh củi lội ra ướt đến lưng quần để được lên trước. Nhiều lúc làm cho ông lái đò phải nổi cáu. Có khi chở đầy đò mặt nước mấp mé mạn thuyền chưa đầy gang tay, sóng liếm ướt cả quần áo nhưng vẫn mặc kệ.
Đặc biệt mỗi dịp Tết đến, xuân về khoảng từ ngày 23 Tết trở lên con cháu gần xa từng đoàn nườm nượp sang đò đi viếng mộ tổ tiên ông bà, cha mẹ. Lúc này người lái đò lại càng vất vả hơn. Tuy không chen nhau như hàng ngày nhưng lượng người đông hàng trăm người nên nhiều khi không kịp ăn cơm.
Cuộc sống thời đó tuy đói nghèo, vất vả, ai cũng như ai nhưng tình làng, nghĩa xóm thật đậm đà, thật đáng quí, sống chân tình, cởi mở. Trẻ con thì hồn nhiên, biết chăm ngoan, nghe lời cha mẹ, phụ giúp gia đình, trông nom nhà cửa, em út. Đi học thì chịu khó, cần cù, chăm học. Nhờ vậy những lớp người đó đến nay hầu hết đã dạn dày sương gió, cuộc sống ngày càng được nâng lên, công danh thành đạt.
 Hiện nay xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống càng ngày càng được cải thiện, càng được nâng cao, trẻ em có điều kiện học hành hơn. Nhưng những ký ức về một thời của các thế hệ nay là ông, là bà làm sao quên được những năm tháng chiến tranh ác liệt, một thời đói nghèo cứ bám lấy từng gia đình, làng xóm.
Mong sao từ những ký ức này, từ chuyện kể này, các thế hệ con cháu mai sau hiểu rõ hơn, cùng chung tay xây dựng quê hương ngày càng đổi mới, giàu đẹp hơn.
                                                               
                                                                     Trần Xá, ngày 23/7/2022
                                                                Người sưu tầm và viết bài
                                                                        Nguyễn Đình Thi
Ghi chú: Bài viết đã được  tác giả chỉnh lý hoàn chỉnh sau khi đăng trên trang facebook và đã được bạn đọc hưởng ứng, mạn đàm, trao đổi, phản biện cung cấp bổ sung thông tin. 
2
2jpg
75b9cff528fbd5a58cea
82002825 753670575374947 2467692349051247151 o
101842273 750916455650359 8496589048328201981 o
103064352 750915335650471 1115128429270984265 o
103370913 753668942041777 3328226543572080695 o
103414578 750907765651228 3528006640788366796 o
103807676 750907858984552 3993983953916658482 o104287199 753670662041605 346658330828603142 o