Câu chuyện mà tác giả Nguyễn Thanh Tùng viết lại tưởng như chuyện đùa nhưng có thật và là những kỹ niệm tuyệt vời . Làng Trần Xá dần thay đổi, con cháu thế hệ sau sinh sôi nảy nở, chim cá cũng ngày càng ít đi, chỉ còn ít người biết và còn nhớ về quá khứ và những câu chuyện cũ đơm chim, bắt cá này.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./.
Rào, rào, rào … cả đàn chim le le, bồng bồng(1) hàng trăm, hàng ngàn con ầm ào hạ cánh xuống mấy khoang ruộng loang loáng nước. Cách đó không xa, tôi ngồi yên nín thở chứng kiến hoạt động của bầy chim. Trong đêm tối, tiếng kêu cạc cạc, tiếng đập cánh, tiếng vỗ cánh trên mặt nước tạo nên âm thanh hỗn tạp mê hoặc. Bởi phán đoán đúng “Trộ chim” (2) nên giờ đây những cánh lưới của tôi đang nằm ngay trên đầu lũ chim để chờ khi chúng di chuyển đi ăn là mắc. Tôi hình dung sáng mai sẽ được bao nhiêu là chim … rồi thì mẹ đi bán để mua gạo cho cả nhà ăn được mấy ngày. Ôi! Thật sung sướng quá, chắc đêm nay lại thấp thỏm ngủ không ngon giấc đây.
Không biết nghề đơm chim bằng lưới có tự bao giờ. Theo ba tôi kể thì khi còn bé ông đã thấy có người ở bên Hiển Lộc làm nghề rồi. Sau đó nghề này được một số người trong làng học và làm theo như ba tôi, ông Lập, ông Hoang nhưng duy trì đến giờ thì chỉ có nhà tôi. Để làm nghề, việc đầu tiên là phải đầu tư lưới và cần cắm. Lưới thì đi ra vùng biển mua những tấm lưới đay đan thưa sợi nhỏ đã dùng nhưng còn mềm mại và dai của ngư dân. Sau đó đem về cắt và gia công lại từng tay lưới đơm chim có chiều dài 15 mét, chiều rộng 1,0 mét (để khi lưới căng lên còn khoảng 0,7 mét) luồn vào hai sợi dây to trên và dưới (gọi là triêng) chắc chắn. Còn cần cắm được làm bằng loại tre thẳng to bằng ngón chân cái thon dần lên trên, đầu dưới vót nhọn để cắm xuống ruộng, đầu trên nhỏ đàn hồi được dùng mắc lưới vào. Để giữ cho lưới không bị đổ khi có gió to, cần được kéo bằng một đoạn tre cật phía trên nối mềm với cần bằng dây dù, phía dưới vót nhọn để cắm sâu xuống đất về phía sau gọi là chực.
Nguyên lý hoạt động của đơm chim dựa trên bản năng khi bay đi ăn của loài chim là luôn bay ngược hướng gió thổi. Còn lưới thì giăng ngang chiều gió và được gió thổi căng. Ban đêm khi chim bay đi ăn không nhìn thấy nên lao vào lưới mắc luôn. Nhờ dây triêng giữ căng và lưới dồn về nơi mắc nên càng giẫy chim càng bị trói chặt chờ đến sáng chủ lưới đến bắt.
Mùa đơn chim le le, bồng bồng bắt đầu khi mùa đông đến chim di cư về vùng nhiệt đới. Lúc này bà con nông dân đang thu hoạch lúa vụ mười và cày bừa để chuẩn bị cấy lúa vụ mùa tới. Lũ chim đi thành đàn đông từ hàng trăm đến hàng nghìn con tìm đến những thửa ruộng đó để ăn lúa hoặc mò hạt lúa còn sót lại trên chân ruộng. Vết tích chúng để lại là những chiếc lông rụng nổi trên mặt nước trôi vào bờ. Tùy theo độ mới của lông chim và độ đục của nước mà người đơm chim phán đoán đêm sau đàn chim còn đến kiếm ăn ở đấy nữa hay không mà giăng lưới chờ.
Việc đơm chim được chuẩn bị từ chiều cho kịp trước khi chim bay về ăn. Nếu không nhìn thấy người trong trộ, chim sẽ bỏ đi mất.
Cứ 16 giờ chiều hàng ngày là tôi và chị gái lên đường đi đơm chim. Cần thì thường được bó dựng luôn ngoài đồng nên chúng tôi chỉ phải mang túi lưới. Khi ra đến “trộ chim”, dưới sự giúp sức của chị gái tôi nhanh chóng cắm cần giăng lưới ngang qua ruộng vuông góc với chiều gió thổi (thường thì mùa này hướng gió chủ yếu là đông bắc). Sau hai giờ làm việc, mười lăm tấm lưới đã được căng xong. Lúc này trời đã nhá nhem tối, chúng tôi lui ra xa dấu mình hồi hộp ngồi chờ chim về.
Và giờ đây lũ chim đang đập cánh, kêu vít vít ầm ĩ trong “trộ chim” với những tấm lưới chúng tôi đang giăng như kể cùng mọi người ở trên.

Bỗng tôi nghe có tiếng đập cánh vang lên trên một thửa ruộng. Bầy chim ở đó phản ứng bay rộ lên rồi sà sang các thửa ruộng lân cận. Tôi cố căng mắt nhìn nhưng phần vì xa, phần đêm tối quá nên không nhìn thấy gì cả, chỉ có tiếng đập cánh là vẫn chưa dứt. Thôi đúng rồi, là lưới ở thửa ruộng đó đã có chim mắc nên đánh động lũ chim. Chưa kịp bình tâm lại những tiếng đập cánh vang lên gần tôi hơn. Hình như một lúc có đến hai con mắc vào lưới nên lần này nhiều tiếng đập cánh nghe dữ dội hơn. Lại một phen lũ chim nháo nhào bay lên hạ xuống. May mà bầy chim say ăn nên không bỏ “trộ” mà chỉ bỏ sang các thửa ruộng khác.
Nán lại thêm một lúc thấy tình hình êm ả, bầy chim vẫn say sưa tìm ăn, những chú chim mắc lưới cũng cam chịu không còn đập cánh mạnh nữa, tôi quyết định về nhà để nghỉ ngơi.
Về đến nhà đã gần 9 giờ tối, chị em tôi ăn vội vàng rồi ngồi vào bàn học bài. Ngày mai có giờ toán nêm tôi say sưa với những con tính mà tạm quên đi tất cả. Khi nhìn lên đồng hồ đã chỉ 22 giờ 30 phút, mẹ dục chị em tôi đi ngủ để sáng mai còn đi tháo lưới sớm.
Tôi lên giường nằm mà mắt cứ chong chong không ngủ được bởi hình dung cảnh chim mắc lưới. Bên cạnh mấy đứa em đang ngáy pho pho ngủ ngon lành. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi tôi nghe tiếng gọi nhỏ nhẹ của mẹ: “Dậy đi con, đã gần sáng rồi đó”. Tôi vùng ngay dậy nhưng cảm thấy rét quá. Ngoài kia chị gái tôi cũng đã sẵn sàng. Hai chi em lầm lũi bước trong đêm tối đi ra phía đồng tận ngoài vùng III.
Nửa tiếng sau, chúng tôi đến “Trộ chim”. Lúc này trời vẫn tối om, rét căm căm. Hai chị em dừng bước khi cách chỗ đơm lưới 500 mét rồi ngồi xuống nghe ngóng. Cách đó không xa bầy chim vẫn say sưa với bản nhạc giao hưởng của trầm bổng tiếng kêu nhỏ to khác nhau, tiếng rỉa lông, đập cánh, bay lên, hạ xuống sau khi đã no nê. Mười lăm phút sau, phía đông đã hửng sáng, những chú chim đầu đàn bắt đầu rồi ầm ầm như khi đến, cả đàn chim đồng loạt vỗ cánh bay lên dàn thành một khối hàng ngang và nối đuôi nhau bay về phía nam. Cả không gian mới đây còn rộn rã giờ im ắng. Tôi và chị gái vội chạy đến các thửa ruộng. Trong ánh sáng loang loáng của nước những chú chim mắc lưới đậu thành một điểm đen trên ruộng hay treo trên không trung và cố đập cánh bay lên nhưng rồi lại rơi xuống. Hai chị em nhanh chóng chia nhau đi hết các tay lưới bắt chim cài hai cánh lại bỏ vào bao. Mười lăm con le le và bốn chú bồng bồng béo tròn lông mượt màu sẫm mắc lưới trong đêm là thành quả lao động của chị em tôi và là ít ỏi lần trong năm được thế. Nếu so với đàn chim hàng trăm, hàng ngàn con thì không đáng kể nhưng là niềm hạnh phúc lớn lao bởi trong thời kỳ khó khăn này đây là cơm áo gạo tiền cho một gia đình đông con như gia đình tôi.
Sau khi tháo lưới, thu cần, hai chị em tôi khệ nệ mang vác bao lưới và hai bao chim về nhà. Đón chúng tôi là mẹ với tất cả sự hồ hởi, sung sướng:“Được nhiều chim rứa à? Các con của mẹ giỏi quá hè”. Hai chị em tôi hạnh phúc nở nụ cười mãn nguyện vui vẻ rửa tay chân mặt mũi, ăn sáng đi học mà bước chân cứ lâng lâng …
Nhờ nghề đơm chim, bắt cá (sẽ kể dịp sau) mà chị em chúng tôi không phải đi rừng lấy củi nhưng vẫn đủ tiền ăn học và trưởng thành. Năm 1972 tôi lên đường nhập ngũ và bàn giao nghề lại cho các em trai nối nghiệp. Nhưng khi kênh đào Duy Hàm hoàn thành do vụ mười không gieo được lúa vại nên chim cũng thưa dần rồi hầu như mất hẳn vào cuối thập niên 70.
Từ đó đến nay tôi không còn có dịp được được chiêm ngưỡng nghề đơm chim nữa nhưng ký ức về những đêm đông rét mướt với bầy le le bồng bồng ầm ào vẫn còn nguyên vẹn mãi trong tôi.
(1): Bồng bồng: Một loài chim trời ăn lúa giống chim le le nhưng nhỏ hơn mà người miền Bắc gọi là sâm cầm;
(2): Trộ chim: Là những thửa ruộng chim về ăn trong một số đêm để lại dấu về là lông chim và làm nước ruộng đục.
Có một mùa đông thật đến lạ. Mùa đông mà "nhẹ lướt trên từng mái nhà, len qua từng khe cửa, mơn man trên từng ngọn cỏ lá cây, cảnh vật chìm trong làn khói sương lãng đãng".
Có một mùa đông mà "cái lạnh se sắt không ngăn được sắc màu tươi vui của những loài hoa chỉ chờ đông sang mới bung tỏa"
Có một mùa đông của mẹ với những bộn bề lo toan không cho mình mà cho chồng con yêu dấu.
Đó là mùa đông của tác giả Hoàng Phương trong tùy bút "Tản mạn mùa đông". Xin mời quý vị và bạn đọc cùng thưởng thức.
BAN BIÊN TẬP
Thế là những cơn heo may cuối cùng cũng đã tiễn thu đi. Thu đã xa rồi! Mùa đông đã về mang cái lạnh đến với nhân gian. Bước chân mùa đông đang nhẹ lướt trên từng mái nhà, len qua từng khe cửa, mơn man trên từng ngọn cỏ lá cây.
Cảnh vật chìm trong làn khói sương lãng đãng. Không còn cái nắng vàng rực của thu nữa mà chỉ là những tia nắng mong manh xen giữa những cơn gió bấc lạnh tê. Gió bấc tràn đầy bờ sông, đầy cả cánh đồng và đang gõ nhịp cả vào những trái tim đa cảm.
Đông gợi cho ta nỗi buồn mênh mang, đôi lúc là nỗi buồn vu vơ. Nhưng đôi khi là nỗi nhớ da diết quê nhà. Nhìn phố xá vào đông co ro, rét mướt, nhìn những cuộc đời lặng lẽ mưu sinh xuôi ngược giữa ngày đông lòng ta lắng lại. Một nỗi nhớ trào dâng đến nghẹn lòng. Nỗi nhớ những mùa đông với màu hoa cải vàng của mẹ.
Mỗi khi đông về, trời đất có gì vấn vương ngoài cái lạnh. Đông ảm đạm, u hoài trên những cành cây trút lá đang run rẩy trong gió bấc. Đông buồn hiu hắt trong màn sương khói lãng bảng bóng chiều hôm. Nhưng cái lạnh se sắt không ngăn được sắc màu tươi vui của những loài hoa chỉ chờ đông sang mới bung tỏa. Hoa trạng nguyên đỏ rực như đốm lửa như đang thắp lên niềm vui, niềm hy vọng trong những ngày nắng nhạt nhòa trên từng nếp nhà người dân Tây Bắc. Hoa hướng dương vàng rực sáng cả một cánh đồng xứ Nghệ nước biếc non xanh. Những bông hoa mặt trời đẹp ngỡ ngàng như trong bức tranh sơn dầu của một danh họa nào đó đã làm ấm lên những mùa đông giá buốt. Hoa dã quỳ vàng óng như dải lụa vàng uốn lượn khắp những cung đường du lịch của thành phố ngàn hoa. Hoa mimosa quyến rũ đến nao lòng giữa mù sương phố núi đang tô điểm cho mùa đông thêm những gam màu thương nhớ. Hoa tam giác mạch nhuốm màu hồng xinh nhẹ nhàng cho những cánh đồng bạt ngàn vùng Tây Bắc lạnh giá làm say lòng bao du khách thập phương.
Giữa muôn hồng ngàn tía của các loài hoa mùa đông, hoa cải vẫn ngời lên một sắc vàng nhẹ nhàng mà lãng mạn. Những bông hoa nhỏ xinh, cánh mỏng manh, mềm mại vẫn vươn mình đón lấy cái lạnh mà khoe sắc. Màu vàng hoa cải óng ả xinh tươi mà dịu dàng chứ không gay gắt, rực rỡ. Màu hoa ấy như nhẹ nhàng rải lên trời đông một phong vị lãng mạn nên thơ mà an nhiên, tĩnh tại.
Ngày xưa ở quê nhà, mùa đông không có loài hoa nào khác ngoài hoa cải. Hoa cải không trồng thành cánh đồng như các vùng quê khác mà chỉ là người dân gieo hai bên triền sông trên những khoảnh đất tận dụng mà thôi. Nhưng cũng đủ làm cho mùa đông sáng lên, xua đi cái lạnh cắt da cắt thịt. Còn trong vườn hoa cải của mẹ chỉ khiêm nhường đứng một góc giữa bao nhiêu màu xanh của rau cỏ mùa đông. Chỉ là vạt cải mẹ để lại cho mùa sau lấy hạt nhưng cái màu hoa ấy cứ day dứt mãi trong lòng đứa con xa xứ.
Gió đông về nhiều lắm. Những cây cải cao ngồng, mảnh mai có lúc không đứng vững mà chao mình theo gió, có khi ngả rạp xuống đất mà vẫn bung hoa. Sáng nào mẹ cũng thăm vườn ngắm hoa cải. Đôi lúc mẹ ngân nga câu ca nghe mà buồn đến nao lòng “ Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu lời đắng cay”
Ngày đông của mẹ là những bộn bề lo toan. Cái lạnh đầu mùa đến làm cho mẹ càng bận rộn hơn. Đêm mẹ đem áo ấm ra sửa lại cho tụi con ngày mai đi học. Mẹ còn lo chuẩn bị nồi than để sẵn cho các con đi học về hơ cho ấm. Mẹ không là nàng Bân nhưng cũng cần mẫn đan áo cho chồng từ mùa đông năm nay cho đến mùa xuân năm sau để gửi cho Ba tận ngoài Hà Bắc. Không phải mẹ vụng về mà mẹ bận quá nhiều việc nên không thể đan xong kịp trong mùa đông.
Mỗi sáng mẹ đều thăm vườn để xem đêm qua gió nhiều có cây nào bị ngã đổ không. Mẹ thường lấy que chống thêm, đỡ cho những cây hoa cải thẳng lên để hoa không bị nát. Những bông hoa cải mỏng manh, bất chấp cái lạnh buốt tận tim vẫn sáng tươi dịu dàng trong gió rét. Màu vàng nhẹ nhàng cùng với mùi vị cay cay nồng nồng của hoa cải như đã xua tan cái xám xịt lạnh lẽo của mùa đông. Mẹ cũng giống như bông hoa cải vậy, mảnh mai, yếu mềm mà can trường mạnh mẽ. Mẹ một mình lo trăm công ngàn việc, vất vả trăm bề nhưng vẫn nhẹ nhàng vui vẻ và ngọt ngào mà ấm áp.
Mùa đông ấm áp, êm đềm bên mẹ thuở ấu thơ giờ đã trôi xa mãi. Cuộc đời dâu bể, mẹ vẫn lặng lẽ dõi theo bước con từ thơ bé cho đến lúc trưởng thành. Dẫu mẹ đã đi vào chốn thiên thu bao nhiêu năm nhưng chắc chắn mẹ vẫn luôn dõi theo con từ nơi xa xôi ấy.
Đông lạnh, gió về se sắt ngày cũng buồn hơn. Nhưng nó lại mang cho ta cái cảm xúc bâng khuâng, riêng biệt mà không mùa nào có được. Ta bâng khuâng nhớ triền sông quê vàng tươi màu hoa cải, mỗi buổi đi học về rét đến tái tê mà vẫn tụm năm tụm ba nhởn nhơ ghé xuống bờ sông bẻ hoa cải làm thành vòng hoa đội đầu rồi mơ về những cô công chúa trong những lâu đài cổ tích. Ta nhớ biết bao hơi ấm của mẹ khi được mẹ ôm hay kẹp chân khi ngủ. Nhớ đến nao lòng mùi hương bồ kết trên tóc mẹ, nhớ mùi hương đồng nội tỏa ra từ thân thể mẹ ngây ngất đến lạ kỳ. Ôi! những mùa đông ngày xưa, mùa đông rất lạnh mà lại rất ấm trong lòng những đứa con bên mẹ. Giờ đây, mẹ đã đi xa nhưng hơi ấm của mẹ cùng với những mùa đông xưa vẫn mãi còn để mà nhớ thương để mà hoài niệm.
Mùa đông rồi cũng sẽ qua. Hoa cải rồi cũng đến lúc tàn. Mùa xuân sang trời đất phương Nam lại vàng tươi màu vàng của hoa mai, hoa cúc. Nhưng trong lòng đứa con xa quê vẫn cứ day dứt màu vàng hoa cải, màu của hoài niệm nhớ thương.
Ôi! Mùa đông, có một người đang thương nhớ mùa đông.
Hoàng Phương
Một trong những thông tin về ký ức và tư liệu cùng những hình ảnh được trang website lưu giữ chuyển tiếp cho các thế hệ con cháu mai sau.
Nói đến làng Việt bao giờ người ta cũng liên tưởng đến cây đa, bến nước, sân đình. Trần Xá là một tronh những làng hội tụ đủ các yếu tố ấy.
Sau những cuộc di dân, khai phá miền đất mới, khi cuộc sống đã ổn định, tổ tiên ta đã nghĩ đến xây đình thờ Thành hoàng, thờ các vị thần che chở cho dân và các tiền nhân có công khai phá giữ đất…