Một trong những thông tin về ký ức và tư liệu cùng những hình ảnh được trang website lưu giữ chuyển tiếp cho các thế hệ con cháu mai sau.
Nói đến làng Việt bao giờ người ta cũng liên tưởng đến cây đa, bến nước, sân đình. Trần Xá là một tronh những làng hội tụ đủ các yếu tố ấy.
Sau những cuộc di dân, khai phá miền đất mới, khi cuộc sống đã ổn định, tổ tiên ta đã nghĩ đến xây đình thờ Thành hoàng, thờ các vị thần che chở cho dân và các tiền nhân có công khai phá giữ đất…
Nghe kể lại rằng ngày xưa trước khi xây đình, làng tìm mời thầy địa giỏi về xem phong thủy. Thầy đi khắp làng một lượt rồi dừng lại và phán rằng: “Điểm này nằm cạnh ngã ba sông, trước có bình phong cồn nổi che chắn, đình làng xây ở đây dân làng không giàu sang lắm nhưng luôn có đồng tiền rủng rẻng trong túi. Cả làng không có chỗ nào tốt hơn. Thế là Làng quyết định xây đình nơi mà thầy địa đã nói. Đó là vùng đất (nền đình xưa) mà sau ngày hòa bình lập lại Hợp tác xã cấp cho ông Đổng làm nhà nay con ông là anh Khoa (Khoa Thu) đang ở.
Trải qua thăng trầm của thời gian, đình làng xuống cấp trầm trọng có nguy cơ sập. Trước tình hình đó, làng quyết định trùng tu tôn tạo. Đó là khoảng năm 1939-1940, một đội thợ rừng khỏe mạnh, có nhiều kinh nghiệm được làng tín nhiệm, gồm các cụ: Nguyễn Văn Truật (bố ông Trình, ông Hòa); Nguyễn Văn Thuyên (bố ông Tọa); Nguyễn Văn Lụt ( bố ông Lệ); Nguyễn Mậu Bổn (bố ông Nông, ông Nảo) và một số thợ rừng khác lên dốc Cổ Rào Đá khai thác gỗ táu về làm cột cái.
Cụ Cửu A (là bác ruột ông Tân, ông Trung) là người thầu gỗ lúc bấy giờ có một đội trâu lĩa khỏe mạnh, chịu trách nhiệm đốc công, kéo gỗ. Đình làng có năm gian, mỗi gian hai cột cái. Gỗ mới khai thác ở đường rừng chỉ kéo mỗi con một cột. Khi ra đường bằng phải hai trâu kéo một cột. Phần gỗ trên như kèo, xuyên, trếng làng cho khai thác ở hai Nghè. Đó là Nghè Làng (nay là khu nhà con ông Hạ và con ông Khiêu ở) và Đôộng Nghè (nay là vùng đất Hà Kiên xây hội trường) chủ yếu là gỗ rạ, mỗi cây to một choàng người lớn ôm.
Không có văn bản thay thế tự động nào.
Giám sát xây đình là Cụ Bát Nồng (chú bác gần với ông Thăng- ông Trường). Thầu khoán mộc và nề là ông Đề Hi người Đồng Hới. Thợ mộc mộ thợ Trung Quán, thợ nề mộ thợ lành nghề vùng Đức Ninh. Đó là hai đội quân chủ lực có tiếng trong vùng lúc bấy giờ. Hồi đó chưa có xi măng, vật liệu xây chủ yếu là vôi trộn với giấy bản (giấy viết chữ nho xưa) giã với mật mía.
Qua một thời gian hai đoàn thợ đã làm việc hết sức khẩn trương, với những bàn tay lành nghề, một công trình đồ sộ đã hoàn thành theo tiến độ dự kiến ban đầu. Một ngôi đình khang trang rộng lớn uy nghi đầy tôn kính đã sừng sững bên ngã ba sông. Lòng dân làng Trần rất đỗi tự hào, vui mừng khó tả, một ngôi đình thuộc diện nhất nhì trong vùng.
Các cụ kể lai khi dựng đình khá vất vả. Đoàn thợ mộc phải vận dụng hết khả năng đã có và sáng tạo thêm. Mỗi vài dựng lên ngoài dùng một đến hai trục quay còn có một lực lượng người khỏe, đông hỗ trợ. Đình dựng xong mà mọi người không ngờ bởi một khối lượng khổng lồ nặng hàng tấn, nhờ khối óc sáng tạo hoàn thành mà phương tiện quá thô sơ. Thật là một điều kì diệu.
Muốn vào đình phải qua cổng tam quan. Cổng tam quan cao rộng, với nhiều họa tiết đắp nổi có voi quỳ hổ phục hai bên và nhiều họa tiết khác được ốp mảnh sành, mảnh chai lấp lánh.
Qua cổng là bức bình phong rộng, cao, mỗi bên một con vật có cái đầu kì quái với hai mắt to, sáng, rặng nhọn sắc, bờm long tua tủa, hai chân vươn lên với bộ móng vuốt sắc như sẵn sàng xé nát bất cứ vật gì. Biểu tượng canh giữ xua đuổi ma quỷ cho Thành hoàng và các Linh Thần luôn được bình yên.
Sau bình phong là một sân rộng lớn dân làng hội tụ khi có lễ hội, tế giỗ và tết đến xuân về. Mái đình được lợp ngói xưa đỏ sẫm, bốn góc uốn lượn cong vút, hội tụ đủ Long, Lân, Quy, Phụng, trên nóc đình là hai con rồng chầu nguyệt. Với bàn tay tài nghệ của những người thợ nhiệt huyết đã làm nên một tác phẩm đình làng thật đáng trân trọng với hậu thế con cháu mai sau.
Bước vào trong đình, đập vào mắt mọi người là một bức hoành lấp lánh sơn son thiếp vàng nổi bật ba chữ nôm “Đình Trần Xá”. Trên mỗi cột là một câu đối, mỗi gian đều có bàn thượng bàn hạ, có hạc chầu trên mai rùa, đủ bộ tam sự ngũ sự lấp lánh xà cừ được cẩn công phu. Nhìn lên các bàn thờ đều toát lên sự uy nghiêm tôn kính. Các vũ khí xưa được bày ở một gian như: Gươm, giáo, kích… trông oai phong dũng mãnh. Đình làng là nơi bà con gửi gắm vào đây tâm hồn buồn vui trong cuộc sống.
Tiếng lành đồn xa, các làng trong vùng đến học hỏi đều tỏ ra kính nể và khâm phục trước một ngôi đình hội tụ đầy đủ những gì mà mọi người mong muốn nhất.
Nhưng lòng vui sướng và tự hào của dân làng Trần Xá chưa được bao lâu thì tin giặc Pháp sắp đổ bộ vào Quảng Bình. Nhà thương Đồng Hới phải sơ tán lên Trần Xá, lấy đình làm nơi tiếp nhận cứu chữa thương binh. Gần một năm sau, nhà thương mới dời lên Rào Trù sau đó chuyển lên Nước Đắng.
Ngày 27 tháng 3 năm 1947 giặc Pháp đổ bộ đánh Đồng hới và sau đó ngày 28 tháng 3 năm 1947 theo đường sông Nhật Lệ đánh chiếm làng Trần Xá. Tại đây giặc Pháp lấy đình làng làm chỗ đồn trú với nhiều lớp hàng rào, nhiều ổ súng bao bọc xung quanh canh giữ, bảo vệ. Đồn giặc kiểm soát ngã ba sông là một bất lợi cho ta. Trước tình hình đó lực lượng vũ trang cách mạng và du kích đã tổ chức quấy rối ném lựu đạn, gài mìn đường đi lấy nước, đốt hàng rào… làm cho chúng ngày đêm sống không yên.
Như mọi đêm dân quân xã tập trung quấy rối nhưng lần này thấy yên tĩnh, giặc không có phản ứng. Khi trinh sát vào mới hay địch đã rút quân qua Đuôi Diện lúc nào (sau chúng xây đồn ở đó gọi là đồn Cồn Dừa vì đó có bãi dừa khá rộng là vùng đất mà một thời bến đò Trần Xá – Hiền Ninh qua về). Đó là một đêm tháng 9 năm 1949 (tháng tám âm lịch).
Tuy chuyển qua Đuôi Diện xây dựng đồn Cồn Dừa nhưng giặc Pháp vẫn nhăm nhe chiếm lại làng Trần Xá nơi án ngự ngã ba chiến lược (điều này đã được minh chứng khi năm 1953 giặc Pháp quay lại chiếm và xây dựng một loạt đồn bốt lô cốt kiên cố với đội quân hùng mạnh tại nơi này). Hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, quyết không để cho giặc Pháp chiếm đóng đồn ở đình lần nữa, du kích xã, thôn huy động một khối lượng củi, rơm, dầu của dân đem chất đầy các cột, đổ dầu đốt đình. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt như một bó đuốc khổng lồ, sáng rực cả bầu trời một vùng rộng lớn. Qua một đêm phần mái đổ sập, khung nhà do cột gỗ to toàn ròng nên còn cháy ngầm thêm một hai ngày nữa mới đổ hết. Dân Trần Xá nhìn cảnh tro tàn lòng đầy uất ức, căm phẫn lũ giặc, vừa tiếc nuối một báu vật vô giá, một di sản có một không hai của làng tàn lụi. Đình làng bị tiêu thổ đã chấm dứt một thời kỳ hoàng kim thịnh vượng của làng để mãi mãi không bao giờ có được ngôi đình như thế lần hai.
Theo nguyện vọng của cán bộ dân làng, được sự tài trợ của những mạnh thường quân là con em đi xa với đóng góp của bà con, làng đã dựng lên một ngôi đình mới ở giữa làng kề sát nhà văn hóa. Ngôi đình mới ba gian hai chái rất uy nghi và rạng rỡ nhưng bà con vẫn tiếc là đình làng không dựng lại được nơi nền cũ. Mỗi khi ngắm đình làng mới dân làng nhất là những người lớn tuổi lại nuối tiếc nhớ lại đình xưa.
Nhìn mới nhớ xưa lòng ứa lệ
Đình cũ báu vật có mấy ai
Hận thù giặc!
Bỗng chốc thành tro bụi
Mãi mãi ngàn năm tiếc khôn nguôi.
Tháng 9 năm 2017
Nguyễn Văn Thuận
Ghi chú:- Phía sau đình còn có một nhà xây rộng, bà con hay gọi là nhà Dóm là nhà để khi làng có việc mọi thứ chuẩn bị là ở đây.
- Qua sưu tầm từ các bậc cao niên, tôi ghi lại đôi nét chắc có nhiều điều khiếm khuyết mong bạn đọc góp ý, bổ sung để hoàn thiện hơn, giúp cháu con sau này hiểu thêm về làng Trần Xá – Đình Trần Xá xưa
Rất chân thành cảm ơn!