Một buổi sáng cuối tháng 4 năm 1953 rất yên bình, mát mẻ. Bà con ai nấy chuẩn bị công việc một ngày mới. Bỗng nghe thấy tiếng máy ca nô rì rì ngoài sông, tiếp đến những tiếng súng nổ xé tan sự yên tĩnh trong thôn xóm. Cảnh tượng ấy, âm thanh ấy dân trong thôn đã quen. Trên mảnh đất này có năm nào không xảy ra những vụ càn của giặc Pháp, ít nhất mỗi năm một hai lần. Mục đích của chúng muốn tìm bắt những người hoạt động cách mạng và vơ vét của cải, hãm hiếp dân thường. Nghĩ chắc lần này cũng thế nên người lớn gọi nhau chạy ra ngoài đồng (nấp dưới lúa) vội vã chôn dấu những thứ quý, còn lại trong thôn người già, phụ nữ và trẻ em.
Mấy chiếc ca nô cập bến (bến ông Đà này nay) tay lăm súng, chúng dàn hàng ngang đi từ đầu xóm lò xuống cuối thôn. Chúng sục sạo như một bầy thú dữ. Song lần này có gì khang khác với mọi lần, chúng đi nhanh hơn ít phá phách, rồi rút về tập trung xung quanh vùng hồ. Chúng đào hào, dựng nhiều lều bạt. Từ dưới ca nô đại nhiều chiếc xe to lù chở sạn cát và nhiều vật liệu khác chạy lùi tiến rồi đổ nhiều đống to nhỏ rải rác. Ai đó kêu lên: “Pháp chuẩn bị đóng đồn!” mọi người sững sờ lo sợ nhiều tốp lính Pháp đến lùa dân không cho ở, bắt phải lùi về sau làng, dành đất cho chúng xây đồn bốt.
Trong hình ảnh có thể có: thực vật, cây, bầu trời, ngoài trời, thiên nhiên và nước
Từ nhà anh Não vào đến nhà ông Trường, ra sau nhà ông Cẩm (bây giờ) trở ra sau làng được ở yên, còn lại phía nam, phía đông ông Trường trở lên lò phải dời đi hết; uất ức nuốt hận bà con xách gói ra đi để lại nhà cửa, vườn tược và của cải không thể mang kịp. Chúng cho máy chặt cây, san ủi thành một vùng trống trải, duy chỉ có hai nhà còn lại nhà ông Tổng Vệ (bố bà Hiền) và nhà ông Hâm (bố ông Duynh) – làm trạm y tế.
Trong thời gian rất ngắn, với máy móc chúng đã đổ xong một đồn, 6 lô cốt, một kho đạn + quân nhu, hai ụ súng pháo. Ngoài ra chúng tháo nhà dân, chặt cau trong thôn, chặt phi lao nơi khác đưa về làm thêm nhà ăn, nhà bếp, nhà vợ con lính ở, cụ thể như sau:
Một đồn rộng khoảng 7m, dài 18m, dày 0,30m – 0,40m, cao 3m, bên trong bố trí nhiều phòng, phòng đồn trưởng, phòng lính, phòng tra tấn, phòng thông tin. Đồn được đắp đất 1/3 dưới, nhiều lỗ châu mai, mỗi lỗ bố trí một ổ súng.
Phía trên đồn chúng dùng vật liệu cướp được (bắt dân chặt làm) chồng lên thành một tầng vừa ở, vừa làm đài quan sát. Đồn chúng làm trên đất ông Mông nay anh Cường ở.
Cách đồn 20m về phía bắc (đất ông Luân đang ở) một kho quân nhu, một kho vũ khí với chiều dài 9m, rộng 3,5m, cao gầm 3m chia hai ngăn.
Sau kho quân nhu 20m là một ụ súng pháo được đặt kiên cố.
Phía bắc đồn khoảng 100m đổ một ụ súng pháo khác. Vòng ngoài đồn có 6 ô cốt đổ dày bê tông cốt thép hình lục lăng với nhiều lỗ châu mai.
- Lô cốt một: cách đồn hơn 300 về phía tây nam (đất ông Bá ngày xưa) sát bờ sông. Phía ngoài nhà anh Đồng bây giờ khoảng 150m. Qua năm tháng, đất bị sông xói lỡ mang cả lô cốt vùi dưới sông.
- Lô cốt hai: Cách đồn 300m về phía bắc đất bà Xoa nay anh Chiến con bà ở
- Lô cốt ba: cách đồn hơn 400m về phía bắc đồn đất ông Lâm đang ở
- Lô cốt bốn: cách đồn khoảng 350m về phía đông nam nay đất anh Xây ở gần bờ sông.
- Lô cốt năm: trên cồn nổi Trung quán
- Lô cốt sáu: Trên cồn nổi Trần Xá nằm giữa ngã ba sông (Nhật Lê – Kiến Giang – Đại Giang) hiện vẫn còn di tích.
Quanh đồn và lô cốt được bao bọc nhiều lớp hàng rào dày đặc. Dưới hàng rào, chúng gài lựu đạn, mìn. Hai lô cốt giữa sông trang bị hai khẩu đại liên quay 3600
Lực lượng quân gồm: Ở đồn một đại đội, mỗi lô cốt là một tiểu đội, đa số là lính người Việt bị bắt đi, còn gọi là nghĩa dũng đoàn, một số cố vấn là lính Pháp.
Vòng ngoài: Phía tây đồn là nhà ông Tổng Vệ có một trung đội nghĩa dũng do một quan Phủ phụ trách, được bảo vệ bằng nhiều hàng rào dây thép.
Nhà ông Hâm như một trạm y tế nằm ngoài hàng rào. Xin nói thêm về cồn nổi Trần Xá trước khi giặc chưa xây lô cốt.
Cồn nổi Trần xá như một kho báu của làng là một rừng già thu nhỏ. Có nhiều loại gỗ quý, cây cao to có cây người lớn ôm không xuể (tôi đã mắt thấy, tay sờ bởi lúc nhỏ theo anh đi bẫy két bên đó) nghe kể lại thỉnh thoảng trước kia nai, hoẳng bơi về ở. Thú nhỏ như chồn, sóc,nhiều, chim về trú ngụ nhiều loài. Đồi cây quý, hiếm này chắc có từ thời sơ khai lập làng để lại cùng với đồi gỗ quý ở dưới nghè (vùng ông Hạ ông Khiêu ở nay là con các ông thừa kế).
Quý hiếm là vậy, tươi xanh là vậy chỉ trong vài ngày với cơ giới máy móc, cưa, vỉ san lấp trong chốc lát thành một bãi trống như đất làm gieo ngô. Bao gỗ quý chúng chở về Đồng Hới dân làng nhìn chỉ biết nuốt hờn tiếc nối. Ngày nay, mỗi lần nhắc đến các lô lão trong làng ai cũng căm phẫn (đồi cây dưới nghè cũng bị chặt phá sau đó).
Đồn Trần Xá xây xong thì lúa ngoài đồng chín rộ chúng bắt dân các nơi về cùng một số bà con ta gặt cho nó. Mùa được chưa kịp mừng, chúng cướp trên tay giữa ban ngày. Cái đói đến nơi, bà con chỉ biết than thở nuốt lệ.
Trong hình ảnh có thể có: thực vật, cây, bầu trời, cỏ, ngoài trời và thiên nhiên
Giữa hai tầng áp bức: Đế quốc, phong kiến, dân ta bị kìm kẹp đến cùng, liên tiếp xảy ra cảnh bắt lính, bắt phu, cướp của, hà hiếp xảy ra. Trước cảnh làm than đó, trên có chủ trương đánh đồn Trần Xá giải phóng cho dân. Bộ đội bí mật về làng, đào hào ém quân…
Tháng 6 năm 1945 một trận đọ súng giữa bộ đội và lính trong đồn giữa ban ngày. Hồi đó, dân làng còn ít người. Từ nhà anh Duận (Huê) bây giờ xuống giáp đất Hữu phan 1/4 trên gọi là đồng đìa còn gọi là đồng bắp, không có người ở hàng năm gieo bắp, trồng khoai.
Lính ra dàn quân vùng nhà thờ (từ nhà anh Hoàng (Con ông Xử) đến nhà anh Hoàng (con ông Mai)
Trong hình ảnh có thể có: thực vật, cây, ngoài trời và thiên nhiên
Bộ đội ém quân giữa đồng đĩa (sau các bờ ruộng cao) và nấp ở đường quan dưới bờ ao. Súng nổ khoảng 15 – 20 phút là hết không nghe nói về thương vong?
Hôm sau một cảnh tượng rất đau lòng xảy ra, lính trên đồn bắn đạn thẳng vào nhà dân (gần trưa) nhà tranh bén lửa bốc cháy ngùn ngụt gió nam thổi mạnh, nhà lại ở dày, phần lớn đàn bà trẻ em ở nhà nên không tài nào chữa nổi. Trong chốc lát gần 30 nóc nhà thiêu trụi (ở xóm anh Lách ra sau bà Tý bây giờ) đúng là trước lúc chết con thú vẫn điên cuồng cắn phá.
Điện Biên Phủ thắng lợi, chiến tranh chấm dứt. Pháp rút quân theo hiệp ước Giơnevơ để lại cho dân ta ngổn ngang, hàng rào dây thép, bom mìn, lô cốt và nỗi hận thù mãi mãi không quên.
Hòa bình, dân ta trở lại vườn xưa, bà con dọn dẹp, cất lại mái nhà tiếp tục cuộc sống mới.
“Gương vỡ lại lành” dân Trần Xá đứng lên dưới chế độ độc lập, tự do, người cày có ruộng tiến tới làm ăn hợp tác không có gì sung sướng hơn. Trong cuộc chiến tranh phá hoại giặc Mỹ, người dân Trần Xá vẫn ngoan cường bám trụ, chia lửa với miền Nam, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Đất nước giải phóng, dẫu có mất mát nhưng dân Trần Xá luôn đi đầu trong phong trào vững bước đi lên. Nào bê tông hóa đường, điện nông thôn, nông thôn mới nay là nước sạch. Có phong trào nào mà dân Trần Xá không đi đầu?
Ngày nay cuộc sống của bà con đổi mới, nhà cửa khang trang, phương tiện làm ăn ngày càng cơ giới hóa, tương lai rộng mở đầy hứa hẹn.
Những chứng tích của thực dân Pháp còn đó, nó ghi dấu tội ác một thời trên quê hương và các vùng lân cận. Phế tích ấy ngày một tàn lụi, có cái bị chôn vùi xuống sông mãi mãi không bao giờ thấy như chinh chủ nghĩa thực dân và phong kiến vậy nhường chỗ cho chủ nghĩa xã hội tươi đẹp ngày thêm tươi sáng, phát triển đi lên.
12/12/2016
Nguyễn Văn Thuận