... Nói về thời thơ ấu, ai mà không có những niềm vui, những kỷ niệm đẹp. Mong ước là muốn viết lại những thời khắc đó như là món quà dành cho quê hương nơi mình chôn rau, cắt rốn và là “Nơi ấy là quê nhà, bên dòng sông bến nước cây đa, nơi những hố bom, bờ kênh, đồng ruộng cho ta một thời bắt cá tôm nuôi mình ăn học; nơi cha mẹ tần tảo làm lụng nuôi ta trong những ngày nghèo khó” để rồi quê hương nâng bước ta ra đi và trưởng thành.
Giờ đây đã lớn tuổi viết lách khó khăn nhưng thôi mình cứ viết, cứ kể tự do và mong các bạn cùng mình liên tưởng, kết nối câu chuyện để cùng vui, cùng nhớ, cùng thưởng thức với nhau nhé.
Kỳ trước: Cá Rào hay cá Sông Nhật Lệ
Kỳ này: Cá Đồng quê mình
Về địa hình làng Trần Xá, tôi còn nhớ ngày xưa quê mình có những địa vật khác với hiện tại. Con đường trục không phải như bây giờ mà nó chạy xéo một mạch từ dưới trường cấp 1 hiện nay về điểm nối hiện hữu đoạn đường gấp khúc giữa làng lên trên đầu làng. Ở đoạn giữa có một cây cổ thụ được gọi là cây nêu giữa đồng. Còn phía ngoài đồng có Luôn và Bàu (là một khu vực trũng được ông cha ta đào sâu xuống với mục đích chứa nước chống hạn). Làng mình có 3 giếng và 1 hồ chứa nước là giếng Chùa, giếng Đa, giếng Thùng và Hồ trên làng bây giờ vẫn còn. Sau nhà trẻ là Hầm của Hợp tác xã (do đào đất để đắp nền xây hội trường tạo nên) bự tổ chang chắc phải khoảng 2000 m2. Còn hố bom thời ấy thì chi chít trên cánh đồng, gần thì có hố bom ông Giúp, hố bom ông Ước, hố bom cây Nêu. Đặc biệt nhất là hố bom ông Cẩm thì quá bự do 4 hay 4 quả bom Mỹ ném xuống chụm vào một điểm tạo ra hố bom to gấp 3,4 lần hố bom thường và là khu vực trũng cá tràn về một thời. Sau này dần dẩn các hố bom bị bồi lấp không còn như trước kia. Làng ta thì hệ thống mương thoát nước song hành các tuyến đường, mùa mưa con nước chảy thoát ra sông để cho bà con ra đơm các loại cá và lươn, mùa nước đọng là đi câu lươn. Thời trước các bậc tiền bối làng mình đã có sự nghiên kỹ lưỡng nên việc làm đường và thoát nước thật bài bản. Nhân đây cũng xingiới thiệu mọi người về viết bài viết rất hay của tác giả Hoàng Văn Dơn ở Hà Nội nói về các dấu tích, tư liệu quý làng Trần Xá với bài “làng Trần Xá quê tôi”.
Cá đồng, cá sông ngày xưa quê mình nhiều lắm. Có lẽ thời ấy không ai sử dụng thuốc trừ sâu và lượng người tham gia bắt cá ít nên cá sinh sôi nảy nở nhanh và nhiều. Cá trong lúa, cá trong mương, hố bom và các hồ, các bàu mênh mông.
Từ mùa xuân đến hè, từ lúc lúa trổ đồng thời con gái, cá chạy từng đoàn trong lúa, đến mùa gặt cá phơi mình trên ruộng xâm xấp, những chú cá tràu, cá giếc, cá rô con nào lớn thì người ta mới tìm cách bắt, còn cá nhỏ thì bỏ thậm chí để khô chết từng đoàn cá nhỏ, hôi ầm lên, ít người bắt cá nhỏ về ăn.
Cá bự chỉ nằm các mương, hố bom, các hồ, bàu, mua gặt xong cũng là mùa kiệt nước cá tìm cách đổ về về các vùng trũng này. Lúc này các mẹ, các chị thường khoanh từng vùng các bờ mương bằng cách đắp một bờ đê tạm tát khô nước một bên rồi trổ dần để bắt cá. Cón các hồ lớn, bàu, hố bom thì cần đến dụng cụ bắt cá.
Nhà tôi thời ấy có tay lưới do ba tôi (đi thoát ly làm việc xa nhà tận Ba Đồn) mua cho anh em tôi. Hàng ngày sau giờ học anh em chúng tôi lại đi bắt cá, lưới được khoanh vùng xong ép sát vô bờ để vây từng nhóm cá. Thông thường mùa đông việc bắt cá cũng chỉ đủ anh em chúng tôi giao mẹ đi bán mua gạo, còn mùa hè thì nhiều bữa bắt cá không xuể, không muốn bắt vì cá không ai mua. Cỡ như đam (cua đồng), ốc bươu, cá rô, cá giếc nhỏ thời đó tụi mình “chảnh” không thèm bắt.
Chuyện bắt cá bự của tôi thì nhiều câu chuyện hài hước như vụ bắt cá vược và cá chép chú Khanh cũng đã có câu chuyện Chú Cá Vược. Còn cá chép thì ôi thôi, tôi và các anh em ruột thời đó cứ dịp mùa hè là đi bắt cá bên kênh Duy Hàm – có năm và có thời điểm cả mấy con một lần và nhiều ngày như thế. Năm 1965 đến 1973, làng ta tạm dừng họp chợ (đề phòng máy bay Mỹ ném bom) và quê mình nghèo không ai đủ sức mua mãi cá chép chúng tôi bắt được, mẹ tôi đành làm cá lấy lá mía, lá chuối khoanh tròn dưới nồi rồi hấp lên sau đó phơi nắng bỏ vô bao bố bỏ lên tra (giàn gác) để mùa lụt lấy ra kho lại ăn. Có những lần bụng đói được mẹ phát ăn món cá khô trữ nó thơm và béo ngậy cho đến giờ tôi vẫn không quên được món “đẳng cấp” thời đói nghèo đó. Cá tràu là một loài cá có sức mạnh và sự tinh khôn thịt lại nạc nhiều, ăn ngon. Vô địch cá tràu anh em tụi mình kéo lưới ở Hầm Hợp tác xã là khoảng trên dưới 4kg. Ba tôi vẫn bảo còn nhỏ so với thời ba bắt con cá tràu hoa từ trên nguồn theo lũ về to bằng bằng cẳng và đùi người lớn gập lại ,gần chục cân. Còn cá triên (trê) có một lần mùa mưa lạnh anh em tôi kéo lưới ở hố bom Luôn trúng một ổ cá trê, dùng lưới bịt một bên, một bên thò vô bắt được 12 con tất cả. Riêng cá zét, cá thát lát thời đó rất nhiều, dễ bắt nhưng cũng không khoái vì làm khó hoặc xương nhiều, ăn không ngon bắng cá nạc.
Nói chuyện về bắt cá đồng thì có lẽ quê mình có hằng bao nhiêu câu chuyện để kể và làng mình hình như phần lớn mọi người đều từng tham gia ít nhiều vào tát ao, mò cua, bắt cá, đơm cá và có nhiều “sát cá” nổi tiếng. Tuổi thơ tôi gắn liền chuyện “cá, chim” trên cánh đồng để lấy tiền thêm vào ăn học và sau này đi xa, lớn lên và trưởng thành. Những dấu ấn về một thời gian khó luôn hiện hữu trong hành trình đi theo tôi suốt cuộc đời. Tôi thường nhớ về đó như là những kỷ niệm, niềm tự hào, tình yêu quê hương vô bờ bến và để luôn giáo dục con cháu noi theo.
Xin ghi lại những kỷ niệm để bạn đọc cùng chia sẻ vui nhé.
Giờ đây đã lớn tuổi viết lách khó khăn nhưng thôi mình cứ viết, cứ kể tự do và mong các bạn cùng mình liên tưởng, kết nối câu chuyện để cùng vui, cùng nhớ, cùng thưởng thức với nhau nhé.
Kỳ trước: Cá Rào hay cá Sông Nhật Lệ
Kỳ này: Cá Đồng quê mình

Cá đồng, cá sông ngày xưa quê mình nhiều lắm. Có lẽ thời ấy không ai sử dụng thuốc trừ sâu và lượng người tham gia bắt cá ít nên cá sinh sôi nảy nở nhanh và nhiều. Cá trong lúa, cá trong mương, hố bom và các hồ, các bàu mênh mông.
Từ mùa xuân đến hè, từ lúc lúa trổ đồng thời con gái, cá chạy từng đoàn trong lúa, đến mùa gặt cá phơi mình trên ruộng xâm xấp, những chú cá tràu, cá giếc, cá rô con nào lớn thì người ta mới tìm cách bắt, còn cá nhỏ thì bỏ thậm chí để khô chết từng đoàn cá nhỏ, hôi ầm lên, ít người bắt cá nhỏ về ăn.
Cá bự chỉ nằm các mương, hố bom, các hồ, bàu, mua gặt xong cũng là mùa kiệt nước cá tìm cách đổ về về các vùng trũng này. Lúc này các mẹ, các chị thường khoanh từng vùng các bờ mương bằng cách đắp một bờ đê tạm tát khô nước một bên rồi trổ dần để bắt cá. Cón các hồ lớn, bàu, hố bom thì cần đến dụng cụ bắt cá.
Nhà tôi thời ấy có tay lưới do ba tôi (đi thoát ly làm việc xa nhà tận Ba Đồn) mua cho anh em tôi. Hàng ngày sau giờ học anh em chúng tôi lại đi bắt cá, lưới được khoanh vùng xong ép sát vô bờ để vây từng nhóm cá. Thông thường mùa đông việc bắt cá cũng chỉ đủ anh em chúng tôi giao mẹ đi bán mua gạo, còn mùa hè thì nhiều bữa bắt cá không xuể, không muốn bắt vì cá không ai mua. Cỡ như đam (cua đồng), ốc bươu, cá rô, cá giếc nhỏ thời đó tụi mình “chảnh” không thèm bắt.
Chuyện bắt cá bự của tôi thì nhiều câu chuyện hài hước như vụ bắt cá vược và cá chép chú Khanh cũng đã có câu chuyện Chú Cá Vược. Còn cá chép thì ôi thôi, tôi và các anh em ruột thời đó cứ dịp mùa hè là đi bắt cá bên kênh Duy Hàm – có năm và có thời điểm cả mấy con một lần và nhiều ngày như thế. Năm 1965 đến 1973, làng ta tạm dừng họp chợ (đề phòng máy bay Mỹ ném bom) và quê mình nghèo không ai đủ sức mua mãi cá chép chúng tôi bắt được, mẹ tôi đành làm cá lấy lá mía, lá chuối khoanh tròn dưới nồi rồi hấp lên sau đó phơi nắng bỏ vô bao bố bỏ lên tra (giàn gác) để mùa lụt lấy ra kho lại ăn. Có những lần bụng đói được mẹ phát ăn món cá khô trữ nó thơm và béo ngậy cho đến giờ tôi vẫn không quên được món “đẳng cấp” thời đói nghèo đó. Cá tràu là một loài cá có sức mạnh và sự tinh khôn thịt lại nạc nhiều, ăn ngon. Vô địch cá tràu anh em tụi mình kéo lưới ở Hầm Hợp tác xã là khoảng trên dưới 4kg. Ba tôi vẫn bảo còn nhỏ so với thời ba bắt con cá tràu hoa từ trên nguồn theo lũ về to bằng bằng cẳng và đùi người lớn gập lại ,gần chục cân. Còn cá triên (trê) có một lần mùa mưa lạnh anh em tôi kéo lưới ở hố bom Luôn trúng một ổ cá trê, dùng lưới bịt một bên, một bên thò vô bắt được 12 con tất cả. Riêng cá zét, cá thát lát thời đó rất nhiều, dễ bắt nhưng cũng không khoái vì làm khó hoặc xương nhiều, ăn không ngon bắng cá nạc.
Nói chuyện về bắt cá đồng thì có lẽ quê mình có hằng bao nhiêu câu chuyện để kể và làng mình hình như phần lớn mọi người đều từng tham gia ít nhiều vào tát ao, mò cua, bắt cá, đơm cá và có nhiều “sát cá” nổi tiếng. Tuổi thơ tôi gắn liền chuyện “cá, chim” trên cánh đồng để lấy tiền thêm vào ăn học và sau này đi xa, lớn lên và trưởng thành. Những dấu ấn về một thời gian khó luôn hiện hữu trong hành trình đi theo tôi suốt cuộc đời. Tôi thường nhớ về đó như là những kỷ niệm, niềm tự hào, tình yêu quê hương vô bờ bến và để luôn giáo dục con cháu noi theo.
Xin ghi lại những kỷ niệm để bạn đọc cùng chia sẻ vui nhé.
Nguyễn Thanh Phiên.