NHÂN ĐỌC TẬP TRUYỆN NGẮN: “GIỌT NƯỚC MẮT NGƯỜI LÍNH”
CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN ĐĂNG AN
Gấp lại trang cuối tập truyện ngắn “Giọt nước mắt người lính” của nhà văn Nguyễn Đăng An, lòng ta cảm thấy yên ả nhưng đó là sự yên ả sau những cơn sóng dâng trào.
Tập truyện gồm 17 truyện ngắn mang dáng vẻ, sắc thái khác nhau nhưng tập trung vào một số chủ đề chính:
Chủ đề đầu tiên là những truyện ngắn viết về đề tài hậu chiến tranh bao gồm: “Ba chàng trai làng Nhân”, “Tân hôn muộn”, “Vầng trăng trên đỉnh Ta Lư”, “Tạ Tội”, “Người đàn bà ở bến đợi xe thành Rôm”, “Giọt nước mắt người lính”.
Mặc dù đây là mảng đề tài được nhiều tác giả khai thác và khá thành công trong những năm sau chiến tranh nhưng với tác phẩm của mình, Nguyễn Đăng An đã đưa ra một cách nhìn mới về tàn dư thảm khốc, dai dẳng của cuộc chiến tranh và quan điểm đầy tính triết lý nhân văn khi giải quyết những hậu quả mà nó để lại.
Sau cuộc chiến tranh, dù là bên thắng trận hay bên thua trận thì sự mất mát đau thương đều hiện hữu thực tế hết sức bi thảm. Hình ảnh Thao trong “Ba chàng trai làng Nhân”, một người lính thắng trận nhưng bị mất một chân trong cuộc chiến, tình cờ gặp lại “một thương binh cụt chân” phía bại trận bên kia. Họ nhớ nhau bởi trong một trận giao tranh ác liệt, hai bên đã lao vào nhau với lưỡi lê đánh giáp lá cà một mất một còn. Sau hơn 30 năm giờ gặp lại, sự thù hận xưa đã nhường chỗ cho lòng trắc ẩn khi Thao một “Thương binh” chứng kiến hoàn cảnh quá khó khăn của người “Phế binh”.
Với “Người đàn bà ở bến đợi xe thành Rôm”, hai người bạn học thời sinh viên nhưng lại là hai người lính của hai chiến tuyến là Ngô Châu và Phùng Tương cùng yêu thiết tha một người con gái là Dạ Lan. Hậu quả chiến tranh họ để lại cho nàng là “hai hình nhân, đúng hơn là hai khúc thịt biết di chuyển, mắt thô lố, miệng cười ngô nghê, đôi bàn tay không ngón chìa ra vẫy vẫy …”. Chất độc da cam không có giới tuyến đã gián tiếp giết chết họ và trực tiếp để lại cho vợ con họ những nỗi mất mát, bất hạnh, đau đớn dai dẵng ngoài sức tưởng tượng.
Giải quyết hậu quả chiến tranh trong tác phẩm của mình là quan điểm triết lý mới đầy nhân văn của Nguyễn Đăng An. Trong “ Ba chàng trai làng Nhân”, bằng lời đề nghị của Thao: “Tớ thấy cuộc sống của người lính đó (Người lính ngụy bên kia chiến tuyến) vất vả quá. Tớ muốn cậu tách đôi cuốn sổ này (Quyển sổ tiết kiệm 200 triệu mà Trí tặng cho Thao), một cuốn cho mình và một cuốn cho người lính kia”. Và cư xử của người bạn đi học nước ngoài về làm ăn thành đạt là Trí “Tớ sẽ tặng thêm một cuốn sổ tiết kiệm nữa cho người lính” đã gây cảm xúc và suy tư cho người đọc.
Với “Người đàn bà ở bến đợi xe thành Rôm”, cách đối xử của Ngô Châu với Phùng Tương thật cao thượng. Mặc dù là bạn học nhưng sau đó đã ở bên kia chiến tuyến lại cưới vợ là người yêu của mình nhưng Ngô Châu vẫn rộng lượng tha thứ, động viên bạn cải tạo tốt để sớm trở về với vợ con. Và cuối cùng thì họ, cả hai người đều không chối từ sự nghiệt ngã do hoàn cảnh chiến tranh để lại mà hy sinh vì người con gái mình yêu với mong muốn giảm đi nỗi đau, nỗi bất hạnh do họ mang lại cho nàng là hai di sản - những đứa con tật nguyền khủng khiếp. Họ ra đi mãi mãi nhưng có lẽ cũng rất thanh thản khi biết rằng trên đời lại có người đàn ông là Trần Trung Hiếu cảm thông, chia sẻ và với tình yêu, tấm lòng vị tha đã chăm sóc cho vợ con họ nơi đất khách quê người.
Đã bốn mươi năm rồi có lẻ sau chiến tranh, tất cả chúng ta dù ở đâu cũng là con dân đất Việt nên cần phải khép lại quá khứ để hòa hợp, để yêu thương và cùng nhau xây dựng đất nước phát triển, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là thông điệp mạnh mẽ mà Nguyễn Đăng An gửi tới độc giả.
Cuộc chiến tranh đã lùi về dĩ vãng nhưng nỗi đau thì vẫn còn đó. Trong “Tân hôn muộn”, hình ảnh Tươi “không biết là đàn ông hay đàn bà đi cà nhắc, lê từng bước nặng nhọc” với chân trái bị mất và “mảng sẹo nham nhở sần sùi chiếm hết thảy phần bụng dưới của chị, ăn sang cả cái khuôn vàng của người con gái” đã làm chị mất tự tin vào hạnh phúc lứa đôi. Tươi đã tìm cách xa lánh Minh, người bạn chiến đấu một thời giữa chiến trường ác liệt và “đã phải duyên nhau”.
Còn với Tùng của “Vầng trăng trên đỉnh Ta Lư” phải chịu đựng sự đau đớn bởi vết thương “mất một chân lên đến phần giữa bẹn và đầu gối và bị một mũi lê đâm vào đầu đã để lại di chứng khủng khiếp cứ vào ban ngày khoảng 4 giờ lại lên cơn điên”. Nỗi đau đớn đó càng tăng hơn hơn khi Tùng chỉ muốn một mình chịu đựng nên dựng lên vở kịch “Tùng hy sinh” để giải phóng cho Trà My, người con gái mà anh yêu thương nhất.
Nhưng nỗi đau đớn về thể xác dù sao vẫn có thể còn giới hạn còn nỗi đau tinh thần, tình cảm luôn đeo đuổi, cứa vào con tim thì thật khó chịu đựng được.
Trong “Giọt nước mắt người lính” ngoài nỗi đau thể xác của Thư khi anh sống sót trở về từ cuộc chiến tranh lại phải chịu thêm nổi đau tinh thần, tình cảm ghê gớm vì đối diện với “Cuộc chiến tranh mới không đạn bom mà ngập tràn nước mắt”. Đó là “bố đã có con với vợ mình”. Trong cuộc chiến này ngoài Thư còn có nạn nhân mới là bố và vợ là Đào. Họ là những nạn nhân của chiến tranh nên “Cả con, bố và Đào đều không có lỗi” như trong thư gửi bố của Thư.
Với “Tạ Tội”, nỗi đau chiến tranh lại dành cho những người đang sống khi mà người thân yêu hy sinh lại không tìm được phần mộ. Hình ảnh người mẹ mang nặng đẻ đau chỉ có ước nguyện: “Mẹ chết để đi tìm mộ anh con đây” đã làm lòng ta tê tái xót xa.
Cũng giống như cái kết các tác phẩm của nhiều tác giả trong thời hậu chiến, trong “Tân hôn muộn” Tươi đã tìm thấy hạnh phúc ngập tràn bên Minh, người yêu năm xưa đã thủy chung, cảm thông, chia sẻ với tình yêu của mình mặc dù phải vượt qua bao trở ngại thử thách. Với Tùng thì “Vầng trăng trên đỉnh Ta Lư” đã soi sáng và chứng kiến cho tình yêu tuyệt vời của họ sau khi vượt qua chính mình, để cho anh được hạnh phúc trọn vẹn với Trà My, người con gái có một trái tim nồng nàn yêu thương mà đầy quyết đoán.
Còn “Tạ Tội” thì Dũng phải nói dối mẹ là đã đưa được hài cốt của anh Hùng hy sinh trong chiến tranh về quê để bà toại nguyện trước khi về với tổ tiên” để rồi ân hận vì mình đã nói dối mẹ dù đó là sự nói dối dưới “chiêu bài đầy tính nhân văn”.
Cái khác của Nguyễn Đăng An ở đây là sự ghi nhận nghị lực phi thường vượt lên chính mình của những nạn nhân chiến tranh, những “Thương binh tàn mà không phế” như lời Bác Hồ đã dạy trước khi được đón nhận hạnh phúc một cách xứng đáng.
Nếu như phần kết hầu hết các truyện ngắn trong chủ đề này làm chúng ta nhẹ lòng và cảm thấy thanh thản thì hồi kết “Giọt nước mắt người lính” đã để lại nỗi buồn sâu thẳm trong lòng độc giả khi đọc hai bức thư của Thư gửi bố và vợ mình. Cái hạnh phúc, cái bình yên mong manh đang tồn tại của gia tộc họ Hứa lại được gìn giữ bởi sự tự nguyện hy sinh cay đắng nhưng cao thượng của Thư và sự xót xa từ tâm khảm của ông Tân và Đào.
Dù thỏa mãn hay còn chút băn khoăn nào đó thì các tập truyện thuộc chủ đề thứ nhất của Nguyễn Đăng An đã đưa đến cho độc giả những cảm nhận mới mẻ về hậu quả cuộc chiến và cách giải quyết đầy tính nhân văn của tác giả.
Chủ đề thứ hai mà tập truyện dành phần lớn nội dung đó là quan niệm về quốc sự, thời thế và cuộc sống.
Vấn đề đầu tiên mà nhà văn Nguyễn Đăng An đề cập trong mảng chủ đề này đó là quan điểm mới mang tính chất quốc gia đại sự.
Với truyện ngắn “Tờ thiếp cưới màu vàng”, tác giả đã đưa ta đến một vùng đất có nhiều bộ tộc sinh sống trong đó đại diện là bộ tộc Vilam (có hoàng tử Vũ), bộ tộc Capa (có công chúa Li) và bộ tộc Tuman (có Hoàng tử Trạch). Bộ tộc Capa được tồn tại và phát triển như nay đã phải nhờ cha Vũ “dẫn dắt cha Li từ một nhân vật bị thất thế trở thành tộc trưởng của bộ tộc Capa công phu và tốn kém”. Nhưng khi các con của họ là hoàng tử Vũ và công chúa Li yêu nhau muốn đi đến kết duyên thì đã bị cản trở bởi chính tộc trưởng Capa, người chịu ơn cha Vũ. Lý do được tộc trưởng Capa đưa ra là: “Quan hệ đồng minh chỉ mang tính giai đoạn. Vấn đề ơn huệ phải đặt dưới lợi ích quốc gia” và việc kết hôn của con gái cũng phải phục vụ cho lợi ích cao nhất của bộ tộc mình. Điều đó làm cho tộc trưởng Vilam bị sốc bởi: “Ông đã ngộ nhận một cá biệt do ơn huệ để lại ra ngoài quy luật: Quốc gia nào cũng biết đặt lợi ích của dân tộc mình lên trên hết”.
Trong chúng ta chắc hẳn nhiều người cũng đã từng tin tưởng vào tình hữu hảo giữa các nước có cùng quan điểm chính trị, để rồi khi bị họ đâm dao vào sau lưng mới giật mình tỉnh ngộ. Bởi vậy mà thông điệp của nhà văn Nguyễn Đăng An rút ra từ “Tờ thiếp cưới màu vàng” có tính thời sự và sức truyền tải mạnh mẻ.
Cũng liên quan đến vấn đề quốc sự nhưng trong “Lời thề chân lý” tác giả lại đề cập đến những nghi lễ hoàng gia mang tính chất hủ tục của đế chế Augustus. Khi một chàng trai La Mã lên đường sang Hy Lạp chiến đấu thì: “Trước khi đi chàng phải đưa người vợ mới cưới đến nhà thờ làm lễ, sau đó đến lò rèn đặt làm một chiếc quần đồng đóng đai lên nơi duy trì nòi giống của phụ nữ để giúp người vợ giữ trọn vẹn thủy chung với chồng”. Nhờ sự đấu tranh khéo léo nhưng cương quyết của những người vợ và sự ủng hộ của những người chồng, Thần Sự thật, vị vua anh minh mà cuối cùng hủ tục này được hủy bỏ. Tục lệ bỏ tay vào miệng Thần Sự thật để minh chứng cho sự chung thủy của người vợ trong thời gian chồng đi chinh chiến cũng chấm dứt. Mọi người vợ, người chồng của công dân La Mã được bình đẳng trước pháp luật.
Thông điệp mà tác giả muốn gửi tới độc giả đằng sau câu chuyện này là: “Giữa nàng và chiến tranh chàng chỉ được quyền chọn một” bởi hạnh phúc và chiến tranh luôn đối nghịch nhau mà mỗi người, mỗi quốc gia phải lựa chọn một cách có trách nhiệm.
Vấn đề thứ hai của chủ đề này chính là quan niệm về cuộc sống: Cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần, tình cảm. Đây là hai phạm trù gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng đôi khi lại đối lập nhau.
Với “Mẹ xóm Đoài”, ta thấy được hình ảnh một người mẹ tuy nghèo khổ nhưng có một trái tim nhân hậu và tình cảm yêu thương, suốt đời chịu đựng hy sinh cho con cái. Đối lập với người mẹ là người con trai vì ham giàu sang, thăng quan tiến chức mà đưa mẹ mình vào hoàn cản trớ trêu và cuối cùng bỏ quên bà nơi làng quê để rồi khi ân hận thì đã quá muộn màng. Thuần của “Kẻ lĩnh án tử hình” chỉ vì tiền bạc mà đang tâm đối xử tệ bạc với mẹ và vợ chồng con nuôi của mẹ mình. Kết cục y phải lĩnh hậu quả là cái chết thương tâm. Còn trong “Bi kịch đời người”, vì hám sắc và bị vòng xoáy tiền bạc cuốn hút nên Dương đã bị lừa cả tình, tiền bạc và cuộc đời bế tắc cho đến khi chết vì tai nạn. “Bi kịch đời người” còn đưa ta đến suy ngẫm về nhân tình thế thái khi Lan vì muốn hai con được hưởng một gia sản kếch sù là ngôi nhà giá trị 50 tỷ đồng của ông bà để lại, đã nhẫn nhục tái hôn với người chồng không còn tình yêu thương và phải dằn vặt lương tâm suốt phần đời còn lại cho việc làm của mình.
Với những truyện ngắn nêu trên, tác giả muốn chuyển tải đến bạn đọc một thông điệp: Tiền bạc, của cải vật chất có thể đem đến hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình nhưng cũng có thể đem lại nỗi bất hạnh nếu để nó thao túng cuộc sống bởi lòng tham lam, ích kỷ.
Vấn đề cuối cùng của chủ đề này mà nhà văn Nguyễn Đăng An thể hiện trong tập truyện ngắn là nhân cách con người và cuộc đấu tranh để bảo vệ nó.
Trong “Phía sau tội ác”, để ngăn chặn tội lỗi do người vợ mình gây ra cho xã hội và cứu rỗi tâm hồn nàng, Toàn đã phải phạm tội ác khi không còn cách nào khác. Nó đối nghịch với Diệu Thúy của “Thiên Nga lạc bầy” là tự mình đâm chết người tình khi nhân phẩm bị chà đạp. Còn ông Hòa trong “Cú đấm muộn” thì dùng quả đấm để tự vệ và đòi lại sự công bằng khi sức chịu đựng của người cựu binh đã đến giới hạn cuối cùng. Với “Gã cuồng danh”, trải qua bao lần nhường nhịn do bản tính chân thực trong sáng nhưng rồi cuối cùng lòng tự trọng và sự ủng hộ của vợ đã giúp Hùng tìm lại được chính mình, một nhà khoa học chân chính. Và kẻ cuồng danh là Cường phải chịu hình phạt của pháp luật.
Cũng là quan niệm về cuộc sống nhưng là một điểm sáng khi tác giả đưa ta đến một quan điểm đã xưa từ thời bao cấp nhưng nay vẫn còn nguyên tính thời sự, đó là “Mình vì mọi người”. Trong “Căn nhà triệu đô” mặc dù biết giá trị của căn nhà đến 40 tỷ đồng và chịu áp lực từ con cái nhưng ông Tuệ vẫn quyết định hiến căn nhà cho nhà nước sau khi mất để làm nhà trẻ cho các cháu. Còn “Cặp ve màu ánh kim” thì quyết định để trả nghĩa cuộc đời họ xin được chết với suy nghĩ: “Chết đúng lúc cũng là một cống hiến vinh quang”.
Suy nghĩ và hành động của họ thật đơn giản mà cao thượng. Bởi vậy, điều mà nhà văn Nguyễn Đăng An gửi tới độc giả thật nhẹ nhàng nhưng mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó không hề sáo rỗng khi chúng ta đang chứng kiến những hoạt động từ thiện giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người bị bệnh tật, ốm đau diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên mọi miền đất nước.
Ngoài giá trị về nội dung, “Giọt nước mắt người lính” của Nguyễn Đăng An là một tập truyên gồm nhiều truyện ngắn được viết ra bằng cảm xúc sâu sắc, quan điểm triết lý đầy tính nhân văn và sự từng trải từ cuộc đời bôn ba khắp nơi của ông. Vì vậy từng truyện ngắn có chủ đề chọn lọc, kết cấu chặt chẽ, văn phong trau chuốt, trong sáng, giàu hình tượng.
Một số truyện ngắn như: “Tân hôn muộn”, “Vầng trăng trên đỉnh Ta Lư”, “Tạ tội”, “Thiên nga lạc bầy”, “Giọt nước mắt người lính” đã gây xúc cảm mạnh cho người đọc và đã để lại nỗi niềm suy tư cho độc giả khi câu chuyện đã kết thúc.
Còn “Ba chàng trai làng Nhân”, “Lời thề chân lý”, “Tờ thiếp cưới màu vàng”, “Cặp ve màu ánh kim” là những truyện ngắn theo thể hình tượng hóa rất đặc sắc. Từ những câu chuyện cụ thể, tác giả đã chuyển tải đến cho người đọc những thông điệp mạnh mẻ mang tầm vĩ mô để người đọc suy ngẫm và chiêm nghiệm.
Mặc dù đã bước qua tuổi lục tuần nhưng với việc tập truyện ngắn thứ ba: “Giọt nước mắt người lính” được xuất bản, nhà văn Nguyễn Đăng An cho thấy ông vẫn còn tràn đầy sinh lực và sức viết mãnh liệt.
Những thông điệp mà tác giả gửi đến độc giả vẫn mang tính chất thời sự, nóng hổi được chắt lọc từ kinh nghiệm từng trải của cuộc đời bôn ba và tính cách đầy nhân văn của ông.
Hy vọng thời gian tới Nhà văn Nguyễn Đăng An sẽ có những sáng tác mới là những truyện ngắn, những bài thơ đặc sắc hơn dâng cho đời.
Hà Nội, ngày 24 tháng 6 năm 2019
Nguyễn Thanh Tùng



