K8 - KÝ ỨC MỘT THỜI

Viết về kỷ niệm một vùng quê của Làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Bình quê ta, sẽ có nhiều câu chuyện với những ký ức thời thơ trẻ, gian khó của bao thế hệ.
Và bài viết K8- KÝ ỨC MỘT THỜI là một trong những câu chuyện quê mình thời đó của tác giả Nguyễn Đức Lý dẫn dắt ta đi ngược về thời gian trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước rất hào hùng, bi thương nhưng rất đổi tự hào của quê hương đất mẹ và một thế hệ của quê mình.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

kyuc1thoi langtranxa.vn2

Năm 1964, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Thị xã Đồng Hới là một trong những trọng điểm ném bom đầu tiên của giặc nên mọi người buộc phải sơ tán ra khỏi thị xã càng sớm càng tốt. Gia đình tôi sơ tán lên quê nội tại thôn Trần Xá, xã Hàm Ninh và được bà con họ hàng cô bác đùm bọc, giúp đỡ nên cũng sớm ổn định nơi ăn chốn ở. Căn nhà gỗ 5 gian ở Đồng Hới được tháo dỡ lên làm hầm chữ A ngay trong nhà. Hầm chắc chắn, rộng rãi, có thể là to lớn nhất làng (sau này bàn giao lại cho dân quân làm nơi sinh hoạt). Năm 1967, Mỹ ném bom Trần Xá ác liệt nhằm hủy diệt cơ quan Lãnh đạo của huyện Quảng Ninh (cũng sơ tán về đóng sát nhà bà Bun và sau lưng nhà tôi đang ở). Kết quả là nhà tôi bị san phẳng do một quả bom tạ sau vườn và một quả roóc két trước sân. Cũng may là chiếc hầm còn nguyên vẹn và mọi người bình an.

Sau vụ ném bom hủy diệt này, ba tôi được huyện cử làm trưởng đoàn dẫn đoàn K8 đưa các con em còn nhỏ sơ tán ra Thanh Hóa. Cùng đi chuyến này có tôi và Hùng - đứa em trai út.

Không biết những chuyến đi trước thế nào, nhưng chuyến đi của tôi quá gian nan, vất vã nhưng cũng để lại nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Tính từ ngày lên xe đầu tiên ở Quán Hàu đến ngày ra tới nơi sơ tán ở Thanh Hóa đúng tròn 3 tháng. Lý do là có sự chỉ điểm nên máy bay Mỹ luôn rình rập để thả bom chặn đường đi của đoàn, vì vậy việc di chuyển rất khó khăn. Có nơi đoàn ở lại rất lâu, mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng tôi vẫn còn nhớ những địa danh mà đoàn dừng chân với những kỷ niệm khó quên: Ở Quảng Hải (Quảng Trạch) gần một tháng, ăn cơm với cá kho nghệ, nấu gì cũng bỏ nghệ vào, lúc đầu khó ăn nhưng rồi cũng quen; Ở Đức Thọ (Hà Tĩnh) có rất nhiều cây cọ, nhà nhà trồng cọ, nhà nhà nuôi ông lấy mật, có đứa bị ông cắn sưng mặt. Ngoài ra còn có món thịt bò ăn hôi trỉnh nhiều người không ăn được; Ở Nông trường cà phê Nam Đàn (Nghệ An) được đi xem bộ đội tên lửa với những quả đạn dài ngoằng, được các chú bộ đội cho ăn cơm cháy cạo từ chiếc chảo to tướng. Mỗi nơi đến đó cũng vài ba tuần nên khá thân thuộc. Trong quá trình di chuyển, nhiều lúc phải đi bộ, đi trong rừng, đi trong đêm có giao liên dẫn đường như trong truyện trinh thám. Có đêm đang đi qua một cánh đồng thì máy bay Mỹ thả pháo sáng, cả đoàn phải nằm bẹp xuống bờ ruộng, ai mặc đồ sáng hoặc có kẹp tóc trên người phải che lại, đợi pháo sáng tắt hẳn mới đi tiếp. Nhớ nhất là đêm vượt Đèo Ngang, xe lên giữa chừng thì giao liên báo có bom nổ chậm xe không đi được, đoàn phải xuống đi bộ, chia từng tốp một, mỗi tốp cách nhau một quãng và cứ thế chạy thục mạng...

Đợt đi này khá đông, nhưng tôi còn nhớ có chị Thảo (con mụ Thé), anh Thư (Bầy), Luyện (Chớt), Lộc (con anh Cáo)...là những người để lại dấu ấn trong tôi. Trong đoàn có Chị Thảo đã lớn và anh D (là người dẫn đoàn thôn Hữu Niên) yêu nhau thắm thiết để cho bọn con nít như tôi đi rình coi. Chớt đêm nằm ngủ hay “đấm dài”, có hôm ở Quảng Hải mấy đứa nằm ngủ trên phản của một nhà dân, giữa đêm thì tá hỏa om sòm cả lên, lần sau không ai dám nằm cùng. Lộc là tay vua nghịch ngợm hay gây gỗ với dân sở tại, đến Hà Tỉnh bị đau răng ôm mặt khóc cả ngày, được ông ngoại mở lọ thuốc thần (mì chính) nhét vào mấy hạt mới hết đau. Anh Thư lúc này thuộc tốp lớn, có bà con họ hàng với tôi nên ở chung với mấy ba con tôi, có nhiệm vụ cõng Hùng khi đi bộ mỏi chân hoặc qua khe suối...

Đến Thanh Hóa, đoàn Hàm Ninh được đưa về xã Định Tăng, huyện Yên Định. Xe chạy vào một cái sân rộng của một hợp tác xã nào đó. Mọi người xuống xe, đứng xếp hàng nghe gọi tên lên nhận tư trang gồm chăn, màn, áo quần, dép. Tôi còn nhớ khi phát dép cao su, vì dép có nhiều cỡ, lần phát trước để cho mọi người chọn thì chỉ được một vài người đầu ưa ý, còn lại không vừa, sinh ra cãi cọ họp hành phân bua mãi. Lần này, người phát thọc tay vào bao đựng dép lấy ra ngẫu nhiên một đôi và đưa cho người lên nhận, sau đó tự đổi cho nhau, ai không đổi được thì ra tiệm cắt lại. Hùng người nhỏ nhất đoàn lại nhận được một đôi to tướng, đành cất lại để cho anh Kỳ đeo. Sau khi nhận tư trang xong, người nuôi lên dẫn về nhà họ. Một cuộc chia tay om sòm diễn ra, tiếng khóc, tiếng la hét vang cả sân. Phải rồi! tự dưng một người lạ hoắc đến dắt tay mình đi, có đứa là anh em, bà con thân thích với nhau vậy mà mỗi đứa phải về một nơi làm sao không buồn, không khóc được.

Ba cha con tôi ở lại Định Tăng một ngày, sáng sớm hôm sau cùng với mấy người nữa khăn gói cuốc bộ về thôn Lạc Tụ, xã Yên Trung, huyện Yên Định, nơi có anh Kỳ và đứa em trai kế tôi là Lân đang ở (hai anh em đi chuyến trước cách đó mấy tháng). Đến đầu làng, dưới gốc đa cổ thụ thấy mấy đứa trẻ đang chơi trò đuổi bắt, ngồi một lúc mới nhận ra Lân đang đứng thu lu dưới gốc cây, người gầy và đen ngòm, trên đầu đội chiếc mũ bằng những chiếc lá đa kết lại. Mấy cha con ôm nhau mừng mừng tủi tủi.

Sau khi sắp xếp cho bốn anh em ở lại gần nhau trong thôn Lạc Tụ, Ba tôi đi nghỉ điều dưỡng ở huyện Bá Thước một tháng. Tôi và Hùng ở lại nhà bác Lý, một gia đình được xem là khá giả và tốt bụng nhất làng. Lúc đó bác Lý đã nhận nuôi anh Cường (em chị Xoa) nhưng anh học cấp 3 trên huyện, cuối tuần mới về. Anh Kỳ và Lân ở hai nhà kề nhau của hai anh em ruột. Lân ở nhà người em, vừa đông con vừa có tiếng “quan tâm” đến người ở như Lân. Vì vậy, mặc dù chưa đến tám tuổi nhưng em phải làm việc quần quật suốt ngày, hết bồng em lại giữ bò, cắt cỏ...người gầy rọp, đen ngòm trong rất tội nghiệp. Sau lần an dưỡng về, ba tôi đến thăm Lân, thấy cảnh ngộ như vậy nên đưa cả mấy anh em về ở chung với ba tại vườn các cụ phụ lão một thời gian.

Nhờ sự giúp đỡ của bác Hoàng Diệm (bạn của ba lúc làm việc ở Quảng Bình trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thị xã Đồng Hới, lúc này là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương), ba tôi cất được cái nhà bằng luồng và lá cọ tại thôn Hà Đông rồi đón mẹ và em Tú (do anh Hoàn và chị Dung bố trí đưa ra Hà Nội) về ở. Như vậy, gia đình tôi sau thời gian ly tán mỗi người một nơi, lần nữa lại được sum họp bên nhau. Chưa đầy năm sau, đầu năm 1969, Mỹ ngừng ném bom Miền Bắc, lại một cuộc hồi hương đầy gian nan vất vả. Lúc đầu là tự phát, ai trốn được thì trốn, sau đó cấp trên đành chấp nhận để mọi người đi về theo đoàn có sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nươc.

Ở thôn Lạc Tụ ngoài anh Cường, anh Lệ là thế hệ trước còn có những đứa cùng lứa như Thịnh, Luynh, Lon, Dũng (Trầm), Cặn, Mai... ở những gia đình được đối xử rất tốt, thương yêu như con trong nhà. Đó là nhà bác Lý có anh Cường và anh em tôi ở, nhà Thịnh, nhà Lon, nhà Luynh ở cũng rất tốt. Tuy nhiên cũng có gia đình đối xử rất tệ, xem như người đi ở đợ như nhà Dũng ở ngay trước nhà tôi. Trong nhà có hai vợ chồng trẻ và một đứa con nhỏ, nhiều lần Dũng khóc thét lên vì bị ăn đòn; có lần nghe tiếng khóc van xin của Dũng, tôi chạy sang thì thấy người nhà trói Dũng vào má giường, cầm một đầu dây kéo căng cho vòng dây siết chặt vào bụng... với lý do đơn giản là rửa bát vô ý làm vỡ mất một chiếc.

Thấm thoắt nửa thế kỷ trôi qua, ngẫm lại như mới ngày hôm qua. Từ những đứa trẻ ngây ngô khờ khạo ngày nào giờ đây đã trưởng thành cùng với sự đổi thay và lớn mạnh không ngừng của quê hương đất nước, đã thành ông, thành bà cả rồi. Cũng có người không may mắn phải từ giã cõi đời đi sang thế giới bên kia.

Có dịp gặp nhau, mọi người lại “ôn nghèo kể khổ” của một thời K8. Nghe mấy người đã ra thăm nơi mình ở kể lại rằng: Xóm làng xưa đã thay đổi nhiều nhưng cây đa, sân đình, đường đi lối lại trong thôn vẫn như cũ. Chính quyền, bà con hân hoan chào đón, nhiều người được chủ nhà đón về tổ chức mở tiệc ăn mừng như đón đứa con đi xa mới về. Có người kết nghĩa cha con, anh em vào ra thăm nhau rất thân thiết.

Với tôi, mong rằng sức khỏe tốt lên để có ngày ra thăm lại những nơi mà mình và gia đình đã từng để lại dấu ấn trong những ngày tháng sống trên đất người, và để được thắp nén nhang lên bàn thờ nhà bác Lý, người rất quan tâm và thương yêu hai anh em tôi.
Đồng Hới, ngày 20 tháng 10 năm 2019
Nguyễn Đức Lý

kyuc1thoi langtranxa.vn3