MƠ ƯỚC BAO ĐỜI CỦA ÔNG CHA ĐÃ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC TRÊN QUÊ HƯƠNG TÔI

Tôi sinh ra và lớn lên ở làng Trần Xá, một vùng quê nơi ngã ba sông Long Đại – Kiến Giang – Nhật Lệ mênh mang trời nước đã làm biết bao nhà thơ, nhà văn phải tốn không ít giấy mực cho những tác phẩm với cảm xúc thăng hoa của mình. Vùng quê hữu tình nên thơ đó đã gắn bó với tuổi thơ tôi, với cây đa, bến nước, đường làng, với đám bạn bè cùng trang lứa cắt cỏ, chăn trâu, tòng ngòng tắm sông những trưa hè trên sông Nhật Lệ. Ký ức và kỷ niệm những ngày thơ trẻ gắn bó trên quê hương mãi mãi là hành trang không thể thiếu trong cuộc đời của tôi.

CHUYỆN VỀ NGƯỜI CON RỂ CỦA LÀNG TRẦN XÁ - ÔNG MAI VĂN SƠN

Ông Mai Văn Sơn, sinh năm 1936 tại xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên là con trai của của Liệt sỹ Mai Văn Duy (1907 -1967). Cụ Mai Văn Duy là cán bộ lãnh đạo Huyện ủy Lộc Điền cùng vợ là cụ bà Nguyễn Thị Xuyến và con trai là ông Mai Văn Sơn hai liên lạc viên của Huyện ủy Lộc Điền tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954.

QUÊ HƯƠNG VÀ MẸ


Trong không gian yên lặng đêm khuya của thành phố du lịch biển Vũng Tàu, thoang thoảng ở đâu xa, những tiếng hát phát ra từ căn nhà góc phố của tôi:
“ Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
……………………………
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.
Những câu hát quen thuộc đã làm cảm xúc trong tôi trào dâng với những kỷ niệm xa xưa đưa tôi gợi nhớ về nguồn cội. Làng Trần Xá thân thương là quê hương tôi, nơi chôn rau cắt rốn, nơi tôi sinh ra và lớn lên với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của những ngày thơ trẻ.
Làng Trần Xá quê tôi ở ngã ba sông, nơi dòng Kiến Giang duyên dáng hợp lưu cùng dòng Đại Giang từ núi rừng Trường Sơn hùng vĩ về sông Nhật Lệ mộng mơ, với bến nước cây đa, chợ làng và những cánh đồng bát ngát mênh mông. Làng từng có cây Nêu, có Đường Quan đá lát cùng bao công trình kiến trúc cha ông tạo dựng: Đình Làng, Nhà Thờ, Miếu Ông Nghè, Giếng Đa giữa làng và Giếng Chùa cuối Làng đầy ẩm tịch linh thiêng. Làng tôi có hồ nước ngọt không bao giờ cạn làm mát lòng những ngày nóng mùa hạ; những lô cốt với hàng lỗ châu mai, dấu tích của một thời chống Pháp oanh liệt…. Tất cả những nét đó đã tạo ra sự độc đáo của một vùng quê nhỏ bé nơi khúc ruột miền Trung quê tôi.
Hồi còn nhỏ cho đến khi lớn lên, làng quê tôi là một vùng đất rất nghèo khó lại trải qua thời kỳ chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ hết sức ác liệt. Hàng ngày, hàng đêm âm thanh của những tiếng bom, tiếng súng, những ánh chớp và tiếng nổ chát chúa đã luôn tạo ra cảnh rùng rợn bởi sự sống và cái chết trong thời chiến quá mong manh. Rất nhiều lần, máy bay đã dội bom xuống những căn nhà, những trường học gây ra bao chết chóc, tang thương và đau khổ cho người còn sống. Với làng nhỏ bé của tôi mà đã có đến 54 liệt sỹ. Họ đã hy sịnh xương máu vì đất nước, quê hương để cho Tổ quốc hôm nay được phồn vinh.
Rồi chiến tranh cũng qua đi. Nhưng hậu quả để lại thì vô cùng nặng nề vì làng mạc xơ xác tan hoang, cánh đồng thì ngổn ngang những hố bom sâu hắm và khó khăn chồng chất khó khăn. Dân làng làm không đủ ăn, ngày ngày từng người, từng nhà phải lo toan từng bữa cơm và manh áo, thậm chí những lúc giáp hạt bữa cơm độn khoai sắn, bo bo vẫn không đủ. Trong cái đói nghèo (mà sau này lớn lên chúng tôi mới hiểu) tấm lòng cha mẹ thương con là vô bờ bến, cha mẹ phải
nhường nhịn tất cả, đến cùng để lo cho con thêm miếng cơm độn đỡ đói lòng.
Tôi vẫn nhớ hoài kỷ niệm trong một buổi chiều se lạnh, ngọn gió heo may phả lùa từng đợt sóng lên những thửa lúa của cánh đồng. Đứng cuối ngõ làng, mẹ đã tiễn tôi, đứa con thơ dại chập chững bước vào đời đi học xa. Mẹ chỉ cho con được những đồng tiền chắt chiu nho nhỏ nhưng trong lòng chất chứa bao nổi thương yêu, nhung nhớ và hy vọng. Con đi nhưng vẫn quay đầu ngoái lại nhìn cho đến khi bóng mẹ chỉ còn là chấm nhỏ, khuất dần mới òa lên khóc vì nỗi nhớ và thương mẹ. Và còn đây, tiếng còi tàu còn đọng lại trong tôi như một kỷ niệm không phai mờ khi chứng kiến những lần đưa tiễn anh em chúng tôi chia tay nhau trong sự nghẹn ngào của yêu thương vì nghèo khó, thiếu thốn trăm bề phải xuôi ngược học hành, mưu sinh.
Khó khăn rồi cũng qua đi, Làng tôi đã hòa nhập công cuộc đổi mới với bao thế hệ luôn sẵn sàng đương đầu thích ứng với môi trường cuộc sống. Công dân của Làng tôi có mặt từ bắc chí nam, từ trong nước đến ngoài nước và hầu như mọi châu lục đều có mặt. Sự trưởng thành và phát triển trên các lĩnh vực đời sống xã hội thể hiện trình độ tri thức; sự đóng góp và trưởng thành của nhiều lớp con em quê tôi trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhiều cá nhân tiêu biểu và doanh nhân làng thành đạt luôn hướng về quê hương nơi sinh thành. Ở làng Trần Xá, luôn luôn có sự đổi thay phát triển đi lên. Những hố bom ngày trước nay không còn nữa mà thay vào đó là cánh đồng xanh ngát thẳng cánh cò bay và người lao động được làm chủ trên những sản phẩm mình làm ra. Miếng cơm manh áo không còn là nổi lo của mọi gia đình nữa mà ở đâu, gia đình nào cũng có của ăn của để và đầy ắp những tiếng cười hạnh phúc. Hình ảnh của một làng quê phù trú với hạ tầng giao thông, điện, đường, trường, trạm và các hoạt động tinh thần với các lễ hội, các hội đoàn như những nét chấm phá đặc trưng sự phồn thịnh của một vùng quê.
Trong lần trở về làng gần đây, bỗng dưng những cảm xúc tự hào về quê hương trong tôi dâng trào. Tôi đi lang thang trên những con đường bê tông, vào từng ngỏ hẻm mà hầu hết là những mái nhà ngói tường xây, cây cối sum xuê và nhiều cây cảnh làm đẹp. Niềm vui dâng trào khi tôi đứng ngắm cổng làng đứng sừng sững và vững chắc với kiến trúc độc đáo, cổ kính đường nét sắc sảo, biểu tượng của sự bền vững và ấm no. Đi vào trong làng, một ngôi đình với kiến trúc mang nét cổ xưa, cách bày trí đầy tính nghệ thuật và nhân văn với những đường nét bay lượn nhưng chắc chắn, thể hiện sự điêu luyện của người thợ giỏi. Vào trong đình là bàn hương án, những bài vị, bức hoành phi, câu đối, bình phong được sắp xếp một cách khoa hoc và trang nghiêm như thể hiện sự tinh túy của người dân quê xin dâng hiến. Tôi đã thắp nén hương vái khấn xin Thành Hoàng phù hộ cho dân làng được mãi ấm no và hạnh phúc và lạ thay lòng cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Ra khỏi đình làng hướng về bờ sông là khu chợ được xây lại rất khang trang theo kiểu ở một vùng quê miền Trung với con đường ven sông mơ mộng. Chợ tuy nhỏ nhưng rất phong phú các mặt hàng và tôi thích nhất là những con cá, con tôm vừa được đánh bắt còn nhảy “đành đạch” trên những cái “mẹt”. Eo ôi đó là mặt hàng “xa xỉ” của những người sống xa quê như tôi….Tôi xuống bến nước theo con đường trải bê tông, vốc lên mặt mình dòng nước mát sông quê và tận hưởng với cảm giác thích thú. Ngắm nhìn cây đa mới trồng đang đâm chồi nảy lộc thể hiện sức sống mãnh liệt, tôi lại nhớ về bóng hình hai cây đa cổ thụ năm xưa với một niềm ngẩn ngơ, bâng khuâng…
Những đấng sinh thành chúng tôi xin gọi chung là “Mẹ” đã đi xa. Bao lớp người của làng quê cũng như anh em tôi trưởng thành và lớn lên từ nghèo khó vẫn luôn nhớ về quê hương nguồn cội. Từ trong tâm khảm, hai chữ “Quê hương” và “Mẹ” mãi mãi là một hình tượng thiêng liêng mang theo trong suốt hành trình cuộc đời chúng con.
Tiếng chuông đồng hồ làm tôi quay lại hiện tại. Trời! đã 2 giờ sáng rồi ạ, còn bao điều chưa nói hết. Xin tạm gác lại những cảm xúc quá khứ vì công việc đời thường của một ngày mới đang chờ và hẹn ngày tái ngộ trên mảnh đất Trần Xá thân thương.
                Đêm Vũng Tàu tháng 12 năm 2014
                   Nguyễn Văn Khương
                   Sinh năm: 1969
                   Quê quán: Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình
                   Hiện sinh sống tại: Thành phố Vũng Tàu
 
Ảnh cưới của vợ chồng tác giả, nơi có cây đa và bến nước sông quê
KhuongThao
 
 

BẠN BÈ THỜI CỦA TÔI

http://webcu.langtranxa.vn/3cms/ban-be-thoi-cua-toi.htm

    Chúng ta tự hào rằng: Trần Xá là một làng thuần nông nhưng có truyền thống hiếu học. Đã có nhiều con em của làng thành đạt trên nhiều lĩnh vực, xứng đáng là tấm gương cho những lớp kế tiếp noi theo. Với bài viết này, tôi xin được kể ra lớp bạn bè của tôi, những người cùng học phổ thông cấp III (khóa 1976-1979) để ôn lại thời “oanh liệt” cắp sách đến trường trên quê mẹ Trần Xá yêu thương.

      Đứa bạn đầu tiên tôi muốn nói là Võ Hữu Tuấn vốn được sinh ra trong một gia đình Nhà giáo. Bố là ông Võ Hữu Tiến làm giáo viên rồi hiệu trưởng trường cấp III, chuyên viên Sở giáo dục, nay đã nghỉ hưu. Nhà Tuấn ở ngay ngã ba sông Nhật Lệ-Kiến Giang-Long Đại. Tuấn hiện đang dạy học tại trường THPT Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Cùng bà con cô cậu với Tuấn là Nguyễn Văn Thông, đang công tác tại Cục Thống kê Quảng Bình. Hai anh em này, hai ông bạn tôi có cấp có hàm rồi không rõ bận rộn chi mà lâu lâu cũng ít gặp, dù tôi mỗi năm có về quê một vài lần.

      Mé sông gần phía đầu làng, nơi nhìn ra Cồn Nổi là nhà Nguyễn Văn Sỹ. Hồi đi học, nó hay khoe với bạn bè là nhà tau (tao) mát nhất làng. Học xong, nó sang Tiệp Khắc, sinh sống và làm ăn bên đó. Tôi và bè bạn cùng mừng cho nó vì nghe đâu làm ăn khấm khá. Lần chúng tôi gặp nhau gần nhất cũng đã ngót nghét 10 năm. Dạo ấy, bạn bè gặp nhau tay bắt mặt mừng, cứ gọi tao mày, thằng nọ con kia nhưng Sỹ "đi tây" về oai lắm, oai ra phết, bảo thế là không lịch sự. Tôi thì bảo, "bỏ mẹ cái lịch sự theo kiểu tây đó đi". Hắn cười đồng ý. Bạn bè lâu ngày sao mà vẫn hay thế, vô tư thế, như thời "áo rách" vẫn hãnh diện đến trường. Lần gặp đó, hắn có ý tưởng muốn giúp làng một kỷ niệm chi đó. Lâu lắm không gặp nên chẵng biết nó có lồng ghép vô việc mô không. Biết đâu, trên trang web này Sỹ của tôi liên hệ về làng rồi để bè bạn vui vầy với ý tưởng 10 năm trước của Sỹ.

          Nói về mấy O con gái nằm trôổng giữa làng, xa có, gần có. Học xong, chưa kịp đi đâu thì O Phạm Thị Dưỡng đã kết tóc xe tơ với anh Nguyễn Đức Kỳ, "một nắng hai sương" nơi quê nhà. O Võ Thị Hiên thì khác, khăn gói bươn chãi, lặn lội ra tận đảo Phú Quốc. Hai ả ni giỏi giang việc nhà, một thời hai người như một, chuyện chi cũng hay, cũng biết, khổ mấy cũng nuôi con ăn học đến nơi. Với O Dưỡng rất chi nhiệt tình, mỗi lần họp lớp, bạn bè ghé có chi trong nhà bưng ra hết. Riêng O Hiên sẽ là người độc nhất của làng Trần Xá, nơi hòn đảo đang trở thành Đặc khu Kinh tế đầy triển vọng biết đâu sẽ dẫn dắt con cháu lập nghiệp sau này.

          Khúc đầu nữa làng dưới có Thủy và Phi. Hai ông này ở làng, cùng trôổng, chỉ cách nhau đường quan; Thủy ở ngoài, Phi ở trong. Hai vị là trụ cột của gia đình. Do ham "vui sớm" và "sớm con hơn sớm của" nên nay con, cháu nội ngoại đề huề. Phi thì nhiệt tình nhất "hội", việc gì có Phi yên tâm ngay. Thủy thì ít đi chơi nên bao năm tôi chưa gặp. Hôm khai Đình rồi may mà thấy hắn cười cười nhưng mình chưa kịp hỏi do bận quay phim. Tự hứa, lần sau về quê phải tìm được hắn, vì hồi học lớp 10, hai thằng ngồi sát nhau cho đến ngày xa nhau.    

         Trôổng có nhiều đứa cùng học nhất là trôổng trên chợ (lúc nhỏ tụi tôi gọi là trôổng ông Đằng). Không rõ ông trời sắp đặt thế nào mà khóa học này có nhiều người ở trôổng này học thế và giờ ai cũng giỏi giang cả. Ngoài Nguyễn Văn Thông đã kể ở trên còn có Nguyễn Minh Lộc. Hiện tay này đã mang hàm đại tá Quân đội ở Quân khu V. Lộc vẫn có nước da hồng đẹp, thừa hưởng gen của dòng họ. Trần Quang Ánh- con mệ Tấn, cấp bậc thượng tá Công an ở TP Hồ Chí Minh. Ánh lấy vợ "trễ" nên con “ trẻ” kể cũng hay, trông trẻ, khỏe khoắn lắm. Nghe đồn quy hoạch Ánh làm trưởng hội đồng hương Trần Xá tại TP Hồ Chí Minh mà chưa chịu nhận. Kể cũng khổ, Sài Gòn rộng mênh mông làm trưởng một hội đồng hương làng đâu có dễ chi đối với ông tá 3 sao đang đương chức. Việc làng thì miên man vô kể. Làm cho làng tốt thì không sao, không tốt thì lắm người nói vô, nói ra; mà nào có lương bổng phụ cấp chi đâu. Kế đến, Nguyễn Thị Liên. Liên học xong ở nhà lấy chồng là anh Võ Hữu Giờ, nhà trên mút làng. Năm 1978, ông Giờ đánh đấm ở Campuchia "ác liệt" lắm, được khen ngợi và thăng vượt cấp quân hàm. Sau đó, trên đường chuyển quân vội ra biên giới phía Bắc chống Trung Quốc, lúc qua quê ông có ném lá thư gửi người thân cho người đi đường. Thư bay xuống quốc lộ 1A, được người dân nhặt và chuyển đến cho gia đình. Không rõ có thiệt hay không nhưng tôi vẫn còn nhớ chắc cú chuyện này làm bao đứa xuýt xa thán phục trong đó có Liên, người sau này trở thành đệ nhất phu nhân của chàng. Rồi còn Trần Quang Bình, biệt danh “Bình bậm”, nay Hiệu phó trường THCS Trường Sơn. Tay này ở quê mà sống khỏe, thu nhập cao. Giáo viên Trường Sơn mà cũng có lương cao ngất huống chi hiệu phó. Bình này trẻ mãi, có vợ là cô giáo quê miệt Quảng Trạch đảm đang được làng xóm khen. Vợ chồng nó được ba đứa con gái nhưng đứa nào học cũng giỏi, Cuối trôổng là cô giáo Nguyễn Thị Mai dạy học và lấy chồng ngoài Bố Trạch. Người Mai vẫn giữ được eo co, mãnh mai, rất vui nhộn khi bạn bè gặp nhau. Thực ra, Mai là o của tôi, lại lớn tuổi hơn nhưng tôi kêu bạn mà o không giận hờn. Thế kể cũng hay hay, có lúc cứ theo bà con gọi chức danh sinh ra mất tự nhiên bạn bè.

 
          Gần chợ làng có Nguyễn Thanh Dòng - một doanh nhân có cỡ ở Quảng Trị. Nhiều năm qua, các giải thưởng quốc gia về doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt anh có cả. Thương hiệu nhà xe Dòng Hiền tuyến Hà Nội- Quảng Trị và ngược lại, có tiếng xe tốt, phục vụ nhiệt tình lâu nay. Anh Dòng học trễ một năm do "rừu rạ" lên rú “săng“ (gỗ) kiếm chút tiền giúp gia đình cho các em ăn học. Thời trai trẻ anh đẹp trai có tiếng, nay tuổi đầu năm rồi vẫn còn phong độ.  Còn tôi, Nguyễn Thanh Phiên lúc nhỏ có biệt danh là “Mèo”. Sinh cuối tháng 11/1962, đến tháng  9/1979 tức là 17 tuổi tôi “ly hương” học hành, lang thang hết chốn Sài Gòn đến Vũng Tàu làm ăn rồi lấy vợ, sinh con và “cắm luôn” ở Vũng Tàu cho đền tận bây giờ. Trần Quang Phong, con mệ Diệu. Phong là lớp trưởng của lớp học ngày xưa học giỏi, chữ đẹp. Nguyên sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm thượng tá nghĩ hưu nhưng tay Phong vẫn còn đẹp trai, tóc xanh rì, nhà bự ở Đồng Hới. Nếu không vì sự nghiệp bảo vệ đất nước bình yên biết đâu bạn tôi bây giờ là nhà khoa học hay doanh nhân. Trôổng này, trôổng của tôi, gần ngoài bờ sông còn có Nguyễn Đức Hùng, vợ là Võ Thị Vương người cùng làng. Hùng có biệt danh “Hùng Quẹo“ tên gọi lúc còn nhỏ nhưng lớn lên tụi tôi hỏi vì sao tên quẹo hắn cứ nhe răng cười trừ. Hiện Hùng làm ở Công an TP Đồng Hới, hàm tá hai sao, không biết còn quy hoạch lên gì nữa không? nhưng thêm một, hai sao nữa là đẹp.  Cũng trôổng này tính luôn bạn Kìm, có nhà ở mặt tiền- đường quan (đường cái), trung tâm của làng; chồng sĩ quan hàm tá 3 sao Bộ đội Biên phòng tại TP Hồ Chí  Minh. Mổi năm chị ta vô Sài Gòn ở vài bận chăm chồng con. Việc đi lại ở cái thời buổi hiện đại này thuận lợi thật. Chỉ cần hơn tiếng đồng hồ đi máy bay hoặc 1 ngày 1 đêm bằng tàu là gia đình họ đã bên nhau.

     Áp chót làng là Nguyễn Đức Bình con mệ Nguồn, người bạn học cùng lớp thứ 18 của thời chúng tôi (có lẽ là lớp có người học cấp III đông nhất làng). Mấy năm qua, Bình nổi tiếng với nghề nuôi tôm bên kia Hói Hà, từng có tên trong phóng sự  “ Làng bên ngã ba sông” của anh Thái Toản. Tiếng là có “của ăn của để” nhưng mỗi lần gặp lại, bọn tôi thấy rất thương bạn. Thương vì cái sự bận rộn của nghề nuôi tôm, không có nhiều thời gian để chiều mình vui vầy với bạn bè. Bình từng có một thời làm ăn xuôi ngược vi vu trên đất Liên Xô rộng lớn. Gặp nhau, bạn khoe có đứa con học tốt nghiệp Đại học Bách Khoa Đà Nẵng - Khoa Tự động hóa. Không rõ nay việc vàn đã ổn định hay chưa?

        Kể về trang lứa cùng thời, tôi vẫn thường vênh mặt tự hào thêm những người bạn cùng khóa ngoài làng thành đạt tiêu biểu. Về Sài Gòn ghé bạn gái tên Nguyễn Thị Viện (Trung Quán) làm ờ Viện Khoa học Việt Nam. Ra Nha Trang gặp Đại tá Hà Xuân Cương (Trường Niên). Ngược ra thủ đô Hà Nội có Đại tá Hoàng Trọng Anh (Chính Cúng). TP Đồng Hới có Trần Văn Thỏ, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Bình Lợi. Riêng bạn Trần Công Thuật, quê ở xã An Ninh, lớp 10A cùng khóa, nay là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy- Bí thư Thành ủy Thành phố Đồng Hới. Thuật là khách quý rất nhiệt tình, luôn có mặt trong những ngày kỷ niệm họp lớp của chúng tôi hàng năm.

  Với tôi, quan điểm rõ ràng: đã là đồng môn thì dù có ở cương vị nào, làm gì, to hay nhỏ, giàu hay nghèo, ở quê hay thành thị, trong hay ngoài nước đều cùng mẫu số chung là bạn. Dẫu trên bước đường sau này tôi học thêm nhiều trường lớp, thêm bạn thêm bè ở môi trường mới, tự cõi lòng vẫn không quên những kỷ niệm thời thơ ấu. Nơi ấy là quê nhà, bên dòng sông bến nước cây đa, nơi những hố bom, bờ kênh, đồng ruộng cho ta một thời bắt cá tôm nuôi mình ăn học; nơi cha mẹ tần tảo nuôi dưỡng ta trong những ngày nghèo khó. Và thế mới thấy được cái nghĩa bè bạn thời thơ ấu, sao nó đáng yêu đến thế; để ta mãi nhớ nhung trong những ngày xa quê. Ta mới càng thấm thía "Quê hương là chùm khế ngọt".

          Mới đây, dịp 1/5/2014, nhân kỷ niệm 35 năm ngày ra trường, những người bạn chúng tôi đã tổ chức buổi hội lớp với gần như đầy đủ bạn bè, thầy cô giáo. Trên những mái đầu tóc đã bắt đầu điểm bạc, những cuộc gặp mặt tràn đầy cảm xúc như tìm lại nét sinh động, hồn nhiên của thuở học trò. Cứ mỗi lần gặp như thế, tình bạn, tình thầy trò luôn nặng mãi trong tôi, trong mỗi chúng ta- bạn bè tôi, học sinh lớp 10E trường cấp III Quảng Ninh./. 

                                         Tác giả bài viết: Thanh Phiên      

 

 



VIẾT VỀ LÒNG BIẾT ƠN

Làng mình ai còn nhớ O Gắm không nhỉ. Một người con làng Trần Xá có tuổi thanh xuân nhọc nhằn, vất vả nhưng luôn dành điều tốt đẹp nhất cho những đứa con với tình thương yêu vô bờ bến của người mẹ. Và trời không phụ lòng khi O nhận được sự đền đáp xứng đáng của những đứa con ngoan dành cho mẹ kính yêu.
Sau đây là những dòng tình cảm yêu thương, trân trọng đó của con gái Võ Thị Thái Vượng gửi đến mẹ nhân ngày sinh nhật.
Trân trọng!
      BAN BIÊN TẬP