GIẤC MƠ HỒI HƯƠNG

 Cùng quý vị và bạn đọc thân mến!

Trong chuyên mục “Tri ân Bà mẹ Việt Nam anh hùng của Làng Trần Xá”, Website đã có dịp giới thiệu về Bà mẹ Việt Nam anh hùng Hoàng Thị Vẽ. Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý đó cho mẹ để ghi nhận cống hiến lớn

lao khi hai người con trai, một người con rể của mẹ đã anh dũng hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng có một điều hết sức đặc biệt mà nhiều người trong chúng ta vẫn chưa hề biết đó là mẹ Vẽ và gia đình còn phải chịu tai tiếng, thiệt thòi nhiều năm khi người con thứ của mẹ là một chiến sỹ tình báo trung kiên được Đảng và cách mạng bố trí đội lốt theo địch vào Nam hoạt động. Người chiến sỹ tình báo đa tài đó là Thiếu tá Nguyễn Mậu Đàn.

Với lòng biết ơn sâu sắc công lao to lớn của Ông, Website làng xin nghiêng mình tưởng nhớ đến Ông và trân trọng giới thiệu bài viết của anh Nguyễn Mậu Trường là con trai của Thiếu tá tình báo Nguyễn Mậu Đàn đến quý vị và bạn đọc.

                                     BAN BIÊN TẬP
                                        Tác giả: Nguyễn Mậu Trường

Tôi lớn lên từ một Thành phố biển dịu êm, với những con người hiền hòa mà khắc khổ, năng động nhưng chất phác. Cái chất phác từ giọng nói, từ cái tâm, cái hồn nhiên bao la miền biển chảy dài dọc theo thành phố, như mái tóc dài thướt tha của cô gái dậy thì.
Duongvelang

Thành phố Đà Nẵng thời mới chia đôi đất nước vẫn sơ khai, mộc mạc như bức tranh phong thủy mới phác họa của chàng họa sĩ đang mơ màng sáng tác về vùng miền nơi mình đang sống. Và, trong thành phố đẹp hoang sơ ấy có một gia đình nghèo của người con trai đất Quảng Bình đã bôn ba vào Nam theo tiếng gọi sơn hà đang nguy biến dưới ách nô lệ của Đế quốc Mỹ và theo sự bố trí bí mật của tổ chức. Chàng trai cường tráng, lực điền ấy đã bỏ làng Trần Xá ra đi vào một đêm mịt mờ bóng tối, không để lại một dấu tích và không hẹn ngày trở về làng, về nơi chôn nhau, cắt rốn… Để chấp hành sứ mệnh linh thiêng theo sự chỉ đạo của Đảng, nhận nhiệm vụ tình báo hoạt động trong lòng địch... Đó là Nguyễn Mậu Đàn ba tôi, người mà sau khi ra đi đã để lại biết bao nhiêu nước mắt của mẹ già, của các em thơ dại và với những đay nghiến định kiến của người làng Trần Xá, với cái đại tội bị cáo buộc: Vào Nam theo địch. Chỉ duy nhất ông Hoàng Đàm là bí thư xã Hàm Ninh thời bấy giờ truyền mệnh lệnh của Đảng cho nhiệm vụ cao cả cho ông Đàn là biết nhưng vì đó là lệnh tối mật của Đảng nên ông Đàm cũng nén lòng, bùi ngùi nhìn gia đình anh Nguyễn Mậu Đàn tại quê nhà gặp khó khăn miệt thị của bà con láng giềng. Gia đình đã mang tiếng là địa chủ, nay lại thêm có người anh bỏ trốn vào Nam, thế nên mọi quyền lợi của gia đình bị hạn chế, không một ai phấn đấu được kết nạp vào Đảng cũng vì cái dớp lý lịch có anh vào Nam theo địch.

Lại nói về những tháng năm gia đình tôi ở thành phố Đà nẵng, ba tôi chỉ là anh chàng kế toán quèn nên chính quyền địch không để ý đến, nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, rộng mở, luôn luôn giúp đỡ bà con hàng xóm từ việc nhỏ đến việc lớn trong khả năng có được của mình. Thế nên ông rất được lòng yêu thương của bà con hàng xóm và đó là cái lợi, cái thuận tiện cho vỏ bọc ưu việt của một trong những nhà tình báo đa tài của Đảng.

Nhiều đêm trong giấc ngủ no tròn tôi bỗng thức giấc giữa đêm khuya, nghe nho nhỏ tiếng của người phát thanh viên: “Đây là đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hòa...”. Trong trí não non nớt của cậu con trai tám, chín tuổi, đang dâng lên sự bồi hồì vừa lo sợ, vừa thích thú và vừa tò mò tự hào theo từng tiếng nói mãnh lực, đầy quyến rũ ấy. Tôi mơ màng nghĩ ba tôi đang lén nghe đài Hà Nội vì vọng nhớ quê hương… chứ không biết rằng ba mình là người chiến sĩ cộng sản kiên cường trong lòng địch.
BenDolang FILEminimizer

Mỗi độ Xuân về ba tôi lại ngâm nga... giọng trầm buồn… “Tết đến làm chi gợi mối sầu..”. Tôi nhớ năm đó, khi tôi vừa lên mười tuổi, trong một ngày cuối năm, ba tôi bảo mẹ tôi thay áo quần đẹp cho tôi và dặn mẹ tôi bỏ vào giỏ xách vài bộ quần áo cho ba con chúng tôi.

Ba lấy chiếc Vespa chở tôi đi từ sáng sớm cho đến chiều tối thì đến cầu Hiền Lương. Dừng xe, ba tôi đi đến bốt gác cầu, nói với ông lính ngụy gì đó. Sau một hồi thì thấy họ gật đầu, ba tôi vội chạy lại kéo tay tôi đi đến đứng bên này cầu, mắt nhìn về phía xa xôi ấy với đôi mắt đượm buồn, và dòng nước mắt từ từ chảy dài trên má. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ba khóc, tiếng khóc rưng rức nhưng lòng tôi thổn thức khóc theo. Ba tôi ôm chặt lấy tôi và nói: "Phía bên kia là tỉnh Quảng Bình, nơi có làng Trần Xá quê mình mà ba thường kể cho các con nghe đó. Nơi ấy đang có bà nội con và các cô chú của con đang sinh sống" . Tôi nghe tiếng ba thở dài và lầm bầm nho nhỏ nhưng tôi cũng vừa đủ nghe.. “Thế là xa nhà mười năm rồi...”. (Ba tôi ra đi vào đêm năm ấy là cuối thu năm 1952.)
Binhminhtreùnong FILEminimizer

Thế rồi năm sau, kể từ cái lần ba tôi đưa về cầu Hiền Lương dõi mắt xa xăm nhớ về quê mẹ ấy, thì có một tình báo viên bị địch bắt, do bị tra khảo không chịu nỗi đã khai ra ba tôi. Ba bị địch bắt ngay tại sở làm và hôm sau cả đoàn xe lính đến vây ráp lục soát khắp nhà. Anh em chúng tôi bị bắt đứng vào một góc nhà, mẹ tôi bị họ nạt lớn tra khảo, mẹ tôi chỉ khóc lóc trả lời: "Tôi không biết chồng tôi làm gì, không biết chồng tôi theo Việt Cộng, tôi chỉ là nội trợ lo cơm nước cho chồng con thôi". Tên trung úy an ninh quân đội tức tối tát thẳng vào mặt mẹ tôi một phát như trời giáng và nghiến răng ken két: "ĐM! Đồ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản". Mẹ tôi té lăn xuống đất, mái tóc bung dài nhạt nhòa nước mắt. (Sau này tôi mới biết Mẹ tôi cũng là chiến sĩ giao thông giúp việc cho ba tôi chuyển tài liệu ra chiến khu.) Tôi thấy run lên tức tối, lòng đầy uất hận căm hờn mà chẳng biết làm gì.
Cho lang TX

Kể từ dạo ấy gia đình chúng tôi sống trong khốn khó, hàng xóm tuy vẫn thương yêu nhưng không ai dám chào hỏi vì sợ liên lụy đến Việt Cộng. Anh em chúng tôi bị bạn bè xa lánh, tôi thường bị bắt nạt, có khi bị ném đá vào người vì tôi là thằng Việt Cộng con, là con thằng cha Cộng Sản. Anh em chúng tôi chỉ biết ôm nhau khóc, mẹ tôi dạy chúng tôi đừng đánh lại các bạn ấy mà mang họa, vì họ không bênh vực con Việt Cộng đâu con ơi.

Năm 1970 do sự sắp xếp của Đảng, Tổ chức đã đưa được ba tôi thoát khỏi nhà tù tình báo của địch tại số 3 Bạch Đằng Sài Gòn, nay là TP Hồ Chí Minh. Sau đó Tổ chức bố trí cho gia đình tôi về sống trong vùng tự do tại ấp Sào Nam thành Phố Đà Lạt để tiện công tác cho bàn đạp chiến khu Đông Bắc Đà Lạt cho đến nay. (Chuyện chiến đấu của ba mẹ tôi trong lòng địch miền Nam tôi xin hứa kể hầu quý bạn trong những bài sau khi có điều kiện nhé. Xin các bạn thứ lỗi).
Ngabasong FILEminimizer

Sau bao nhiêu năm chiến tranh tàn khốc, cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng và nhân dân cả nước cũng đến lúc ca vang khúc ca khải hoàn vào mùa xuân năm 1975. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước trọn niềm vui thống nhất. Ba tôi theo đoàn quân chiến thắng về Thủ Đô Hà Nội với niềm ao ước sẽ về lại quê nhà sau bao năm xa cách.
Tuyenchaitrensong

Anh em chúng tôi càng nao nức về làng hơn bao giờ hết, vì bao nhiêu năm ở trong miền Nam ba tôi thường kể về quê nhà với biết bao nhiêu địa hình địa lý. Ba tôi thường dùng cây mây cán chổi lông gà, vẽ xuống nền đất và giải thích cho anh em chúng tôi rõ về quê hương: Rằng đây là quốc lộ 1, đây là làng Võ xá, Trúc Ly, Hàm Hòa, Trần Xá, Hàm Ninh, rồi qua làng mẹ Trung Quán xã Duy Ninh, Hiển Vinh, Hiển Lộc..v.v... Với dòng sông Nhật Lệ êm đềm nối dài xuống quê mẹ là sông Kiến Giang. Ba lại kể về hai cây đa nơi bến sông, mà sau này về làng tôi nghe kể lại một cây đã bị bom Mỹ thời chiến tranh đánh gãy. Rồi xa xa phía bên kia sông Nhật Lệ là ngọn núi Đầu Mâu, là dãy núi Trường Sơn có mộ phần ông Nội tôi trên đó. Lại kể về trên con đường trục dẫn về làng qua mộ Mụ Kích. Ở làng Trung Quán của mẹ tôi lại có bụi tre một v.v... Cả một phong cảnh về quê hương cứ chắp nối cảnh này qua cảnh nọ chẳng đâu vào đâu, nhưng năm này qua tháng nọ, lúc rảnh rỗi ba tôi lại kể, kể riết nên những hình ảnh đó nằm như in trong tâm khảm chúng tôi, đậm nét như chúng tôi đã từng sinh sống nơi quê hương Trần Xá yêu thương ấy.

Rồi ngày trở về làng của tôi cũng đến. Mùa xuân năm 1976 lúc ấy tôi đang công tác tại sở Thông Tin Văn Hóa quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Ba tôi từ Hà Nội viết thư vào nói tôi sắp xếp về thăm quê hương ăn tết. Tôi đọc lá thư như nuốt từng câu từng chữ của ba tôi, mà lòng dâng trào xúc động. Về quê thôi, về quê nội như bao nhiêu mơ ước đi thôi. Đêm về tôi bàn với bà xã (Lúc ấy tôi mới lấy vợ được một năm, và vợ tôi cũng quê làng Trung quán Duy Ninh tỉnh Quảng Bình, thật may mắn quá..) Sau đó, tôi làm đơn gửi lên cơ quan và sở Công An thành Phố Hồ Chí Minh xin phép về thăm quê (Hồi đó tuy là đã thống nhất đất nước nhưng chưa cho người dân tự nhiên đi lại hai miền, chỉ có bộ đội, cán bộ có nhiệm vụ mới được đi qua hai vùng miền) Một tuần sau tôi nhận được giấy phép của Công an thành phố cho về phép với nội dung “Cán bộ kháng chiến miền Nam về thăm quê hương".
vahoanghon

Chuyến đi năm ấy chỉ có ba mẹ tôi, hai cô em gái nhỏ và vợ chồng chúng tôi. Khi chiếc xe đò cọc cạch sau mấy ngày đêm dừng lại trên quốc lộ nơi có chiếc xe tăng bị hỏng đậu bên đường, gia đình chúng tôi bước xuống, lỉnh kỉnh với va li, mấy bao quà dành cho bà con. Ba tôi ngong ngóng chú tôi ra đón. Rất lâu sau có người đạp xe đạp ra, ba tôi ngoắc lại hỏi anh có thấy anh Cỏng đi ra theo không. À anh Cỏng, thầy Long chứ gì. Tôi thấy thầy đi mua hàng bên Hợp tác xã Quán Hàu. Anh chị và mấy cháu chờ tí tôi qua nhắn cho nghe.

Gia đình chúng tôi đến nhà người chú thì vừa tối. Mưa lại rơi tí tách và rét lạnh. Chúng tôi được bà con cả làng ra đón như những người con thất lạc trở về. Tiếng chào, tiếng khóc, tiếng kêu gọi anh Đàn ơi ... tiếng khóc nức nở vì hạnh phúc vang lên một góc trời...Ơi!!! tiếng khóc hạnh phúc của biết bao nhiêu yêu thương tràn đầy nhung nhớ. Ba tôi cứ dáo dác, đảo mắt tìm bà nội tôi, ba hỏi lớn mạ đâu sao không đưa mạ ra cho anh gặp. Mọi người im bặt, đưa mắt nhìn nhau không nói một lời, một không gian im lặng, bao trùm đến nghẹt thở. Bổng chú tôi quỳ xuống khóc rống lên: "Anh ơi! mạ mất một năm rồi anh ơi". Tôi thấy ba tôi thất thần sau vài giầy rồi ôm lấy cô chú chúng tôi van khóc nức nở, khóc như chưa từng được khóc trong đời. Bao nhiêu dồn nén trong lòng mọi người, nay bật khóc cho với cạn nỗi lòng thương nhớ kìm nén bấy lâu nay, sau hơn hai mươi năm xa cách, để ngày về không còn mẹ thân yêu trên cõi đời này nữa. Lúc ấy tôi nghĩ, ước gì giải phóng trước một năm, hoặc ước gì Bà nội tôi sống thêm một năm để ba tôi, người con chiến sĩ tình báo của mẹ, được mẹ ôm vào lòng sau bao nhiêu năm xa cách. Ba tôi vẫn rưng rứt khóc cho đến tận buổi cơm tối.. đoàn tụ gia đình..

Cuối cùng sau bao nhiêu năm xa cách, ba tôi đã trở về làng, với quân hàm Đại úy, sau này là Thiếu tá...Ngực đeo đầy Huân, huy chương và bao nhiêu kỷ niệm chương của Đảng trao tặng. Chàng trai năm nào ra đi giữa đêm khuya nay trở về trong vinh dự là anh Bộ đội cụ Hồ của đơn vị 1752 Cục tình báo trung ương Bộ Tổng Tham Mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. (Và mới đây Nhà nước đã phong tặng bà nội tôi, Bà Hoàng Thị Vẽ danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng"). Bà con Làng Trần xá nói chung và gia đình bà con chúng tôi nói riêng rất tự hào vì người con trung kiên với Đảng đã trờ về nguyên vẹn tự hào như ba tôi.

Mùa xuân hòa bình năm ấy, tôi được sống trong vòng tay yêu thương của cô chú, được chìm đắm trong giọng nói líu lo của quê làng mà tôi chỉ mỉm cười không hiểu mô tê. Được thăm hỏi bà con ruột thịt, mà đi đâu ba tôi cũng làm hướng dẫn viên và phiên dịch cho chúng tôi. Tôi được thưởng thức những món ăn dân dã của làng, những con tôm, con cá trong dòng sông quê hương, những món ăn ngọt ngào tình yêu của người Trần Xá, của hương vị núi sông. Tôi được người em rủ ra bến sông tắm. Tôi đã lặn xuống một hơi dài, nhặt một hòn đá cuội để đem vào miền Nam và uống một bụng nước của dòng sông quê tôi với tấm lòng yêu thương nguồn sống quê nhà, mà tôi là người hân hạnh trong số chín anh em chúng tôi, đã được sinh ra tại làng Trần Xá trong một sáng mờ sương mùa thu năm ấy.

Một mùa xuân nữa lại về, tôi lại mơ màng nhớ về giấc mơ hồi hương mà tôi đã có được những năm đầu giải phóng miền Nam. Một giấc mơ mà gần mười mấy năm kể từ khi tôi khôn lớn đã thành hiện thực và đó là giấc mơ đẹp nhất đời tôi. Sang năm vào tháng năm âm lịch khi lệ dẫy mã hằng năm của dòng họ Nguyễn Mậu tôi lại về. Về của người con của làng Trần Xá, dù sống nơi phương xa vẫn đau đáu ngày trở về thăm đất mẹ yêu thương.

                                                

                                                Đà Lạt mùa đông, ngày 14 tháng 12 năm 2016.
                                                                   Nguyễn Mậu Trường