Trân trọng giới thiệu bạn đọc truyện ký rất xúc động với tiêu đề CÂU CHUYỆN KỂ VỀ DÌ TÔI của tác giả Nguyễn Thanh Phiên
Sau bao trì hoãn, lần này đoàn chúng tôi gồm nhóm gia đình bè bạn ở thành phố biển Vũng Tàuđã có chuyến du lịch nước bạn Lào. Chương trình đi thật tuyệt vời và hoàn hảo bởi sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng và nhiệt tình cùng với sự quen biết rộng rãi của người “hướng dẫn viên”, là một người bạn thân của gia đình từng sống làm việc ở nước bạn nhiều năm.
Chúng tôi được trực tiếp đi thăm lâu đài hoành tráng có giá trị hàng chục triệu USD và chợ, nông trường, sân phơi, nhà máy cà phê , nước đóng chai của nữ tỷ phú Việt Kiều gốc Huế lấy chồng ở Quảng Bình là chủ tịch tập đoàn Dao Heuang được người dân ở Lào gọi là bà Đào Hương.Thăm chùa Tàu, khu Di sản văn hóa thế giới Wat Phu rồi bay về Viên Chăn với đại lộ Lane Xang và Khải Hoàn Môn (Patuxay); Pha That Luang - một bảo tháp mạ vàng, ngôi nhà gỗ đồ sộ đang xây dựng của những người Việt kiều trên đất Lào cùng những điểm tham quan đầy thú vị.
Trong chuyến đi có nhiều niềm vui nhưng để không ảnh hưởng chương trình đã lập trình sẵn anh em chúng tôi có một bí mật với đoàn đi chung đó là để dành thời gian về thăm Dì, thăm người em ruột của mẹ năm nay đã 90 tuổi ở nước bạn.
Gần đến nơi ở của dì chúng tôi mới liên hệ điện thoại, rồi khoảng 21 giờ anh em tôi đến thăm Di và các em trong sự vui mừng và ngạc nhiên vì không hề báo trước. Gặp Dì tại mảnh đất đang sống, nghe Dì kể lại những câu chuyện ngày xưa bao cảm xúc, bỗng dưng trong tôi hiện lên những ký ức mà tôi đã từng nghe và từng kể lại không biết bao nhiêu lần cho mọi người trong những lúc trà dư hậu tửu...và thước phim chiếu chậm ấy đang hiện lên chầm chậm trong tôi về những thăng trầm của một thời lịch sử đau thương hai dân tộc, và bao kiếp người đã đi qua mà nhân vật Dì của chúng tôi như là một câu chuyện thấm đẫm nhiều nước mắt của bao người thân ngày trước, nhưng là một câu chuyện có thực.
Ngày ấy …
Ngày của những năm đầu thập kỷ 40, trên mảnh đất Quảng Bình và miền Trung quê tôi, cùng chung trong nổi đau mất nước của dân tộc. Đói nghèo như là một định mệnh mà mỗi người dân đất Việt chịu đau thương nổi nhục mất nước. Ông ngoại tôi cũng không thoát cảnh nghèo khổ chung như mọi người, vì hoàn cảnh quá ư khắc nghiệt,và muốn cuộc đời con gái mình sau này có cuộc sống tốt hơn, nên qua giới thiệu của những người quen biết và tin tưởng, ông đã cắn răng rứt đi khúc ruột yêu thương vô bờ bến của mình mà đồng ý cho bà ngoại tôi lúc đó tuổi đang còn trẻ dắt đứa con gái áp út 13 tuổi đi tìm mưu sinh với những người đồng hương đang sinh sống, làm việc ở tận nước Lào.
Đi bộ ròng rã nhiều ngày, qua nhiều đường mòn của những người đi trước, sau đó mẹ con được chuyển xuống đi đường thủy và xuôi xuống dòng sông Mê Kông rồi xuôi về tỉnh Champasak thuộc miền Nam, là cửa ngõ vào cao nguyên Boloven của nước Lào. Mẹ con được gia đình người chủ Việt kiều cho công việc làm thuê mướn và được hưởng đồng thu nhập giống như bao người thời bấy giờ.
Sau 3 năm, bà ngoại xin phép được về thăm quê. Bao nhiêu tháng ngày dồn góp tích trữ những đồng tiền mồ hôi công sức lao động được ngoại cất kỹ đưa về cho gia đình...Nhưng than ôi ! Cái nghèo khổ xui xẻo vẫn đeo bám bà mà chẳng buông tha, khi đi qua cửa khẩu thì tên đội người Pháp cho rằng mẹ con Dì vượt biên trái phép và ra lệnh khám người. Những đồng tiền quý giá bị các lính gác khám xét vì việc cất giữ không qua mắt họ nên đã bị tích thu. ..Oan trời không kêu thấu , nhìn những đồng tiền mồ hôi mà bao năm lao động vất vả trên xứ người bỗng chốc bay đi, bà ngoại và dì nghẹn ngào khóc ngất van xin mà mặt chúng nó cứ lạnh như tiền không mảy may xúc động. ..hai mẹ con lại tay trắng trở về với người chủ cũ làm lại từ đầu.Nhưng sự mất mát chưa lắng xuống, tai ương lại ập đến, năm 1944 tức là sau khi chuyến hồi hương không thành, thì sau đó không bao lâu, bà ngoại tôi nghe tin dữ, Ông ngoại bạo bệnh nặng bên nước Việt. Tiền thì không còn, cả nhà lại trông ngóng chờ bà ngoại. Trong cơn cơ hàn bà ngoại xin phép sự đồng ý của người chủ cho con gái vừa chớm tuổi 16 ở lại làm tin để Bà ngoại vay một khoản tiền về lo cho Ông ngoại và sẽ trở lại ngay để làm công trả nợ khi xong công việc ở Việt Nam. Việc tính toán với bà chủ kín đáo để không cho Dì biết sớm đến ngày giờ chính thức hồi hương ….
Bà ngoại lên đường trở về quê trong một buổi sáng sớm tinh mơ, nhìn đứa con đang ngủ và thầm với con... Con yêu của mẹ, hãy tha thứ cho mẹ, hãy thương mẹ, mẹ phải về với Cha và sẽ sớm quay lại với con nhé, rồi len lén lau vội dòng nước mắt chia tay con trong nổi thương nhớ vô bờ. Hình như linh cảm một điều gì đó là lạ trong những ngày gần đây về mẹ, Dì hôm nay thức giấc sớm tỉnh dậy và thấy không còn trong vòng tay ấm của mẹ, nhìn quanh các vật dụng quen thuộc của mẹ không thấy đâu. Dì chạy ra khỏi phòng và chạy đến bà chủ cùng những người trong nhà hỏi được trả lời: Mẹ con đã về Việt Nam lo cho cha con bệnh rồi sẽ quay lại với con nay mai. Dì khóc và hét toáng lên, thoát khỏi vòng tay giữ của những người lớn, bỏ chạy ra bờ sông nơi hàng ngày có những chuyền thuyền chở người xuôi ngược đi, về cũng là lối đi về Việt Nam. Chạy kịp đến nơi cũng vừa lúc con thuyền rời bến. Người mẹ hoảng hốt nhìn đứa con gái chạy trên bờ theo thuyền với bàn tay nhỏ xíu vẫy theo với giọng thất thanh lặp đi, lặp lại: mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con, hãy cho con theo về với mẹ, mẹ ơi …con thuyền dần trôi xa, trời đất quay cuồng, Dì đã bất tỉnh trong vòng tay bao người. Người mẹ nghẹn ngào thấm đẫm nước mắt như vô hồn với lời thầm thì đầy đau khổ...Hãy tha lỗi hãy tha lỗi cho mẹ, con yêu, mẹ sẽ sớm trở lại với con.
Bà ngoại tôi về đã kịp lo cho ông ngoại tôi thêm những sức mạnh chống lại bệnh tật đau ốm nhưng cũng không chống lại được quy luật cuộc đời, Ông ngoại qua đời một thời gian sau đó. Rồi thời cuộc đã thay đổi, cách mạng tháng 8 năm 1945 như trời long đất lỡ của những người dân nghèo khó miền Trung hướng về Cách mạng để cứu lấy vận mệnh đau thương là mất nước và nghèo khó. Bà ngoại tôi không còn cơ hội trở lại đất nước Lào vì chiến tranh chia cắt, con đường đi lại nước Lào phải đi qua khúc vĩ tuyến 17 của Việt Nam đã bị chia cắt, hủy bò. Bà đi rồi lại không thành trở về rồi lại đi về bao nhiêu lần, bà khóc nhớ thương con cạn khô cả nước mắt. Trong tâm khảm người mẹ mà sau này chia sẻ cho chúng tôi cùng hiểu về một nổi đau đáu trong lòng như luôn mang một nổi ân hận day dứt khôn nguôi cho đến suốt gần cuối cuộc đời đó là Mẹ đã bỏ con, mẹ đã đưa con đi làm thuê bên tận xa xôi, mẹ đã làm khổ con và những tiếng kêu xé lòng “mẹ ơi, mẹ đừng bỏ con, hãy cho con theo về với mẹ, mẹ ơi ….” như ám ảnh theo những ngày bên Ngoại rồi lan ra những người thân mà những đứa bé như chúng tôi cũng cảm thấy như chung một nổi niềm. Ba chị em còn lại của Dì là Mẹ tôi và hai cậu hòa vào dòng thác Cách mạng lúc bấy giờ và sau này lăn lộn trên mọi chiến trường đã trưởng thành, mẹ tôi từng làm chủ tịch Phụ nữ xã rồi xây dựng gia đình sinh ra chúng tôi, cậu lớn từng là chủ tịch huyện A Lưới, cậu út từng làm huyện đội trưởng huyện Phong Điền tỉnh Bình Trị Thiên thường xuyên dành thời gian về bên mẹ cùng chia sẻ an ủi như bù đắp thiệt thòi của ngoại. Mỗi lần như thế nỗi đau được xoa dịu trước mắt nhau, nhưng trong lòng mỗi người như từng đợt sóng, nước mắt ngược chảy vào lòng thương nhớ khôn nguôi người em út bé bỏng năm nào không biết số phận vui buồn sướng khổ đau thương ờ tận phương trời phía tây ra sao?.
Lịch sử với những trang viết mới, sau 30 năm đau thương chia cắt hai miền đất nước Việt Nam cũng đã được hòa bình thống nhất. Đất nước Lào cũng thoát ra khỏi đô hộ ngoại quốc trong cuộc hành tiến trường kỳ để giải phóng dân tộc với kết tình gắn bó anh em Việt – Lào. Những đau thương của hai dân tộc và bao số phận cũng nhờ thế mà được kết gắn lại. Năm 1980, ngoại tôi đã từng 82 tuổi và bao người thân đã được đón lại Dì tôi trở lại cố hương sau mấy chục năm trong một “trời nước mắt”. Vui, mừng, cười, khóc, tủi , hờn giận như là những từ dành cho cuộc hội ngộ của một gia đình nhỏ trong một hoàn cảnh chung của hai dân tộc. Sau này Dì kể lại, khi mẹ đi về Việt Nam, trước thì dì trách mẹ đã bỏ rơi, nhiều ngày không ăn uống chỉ khóc thầm nhớ thương mẹ, bao đêm nằm mơ được ôm trong vòng tay ấm áp của mẹ, rồi được vui cùng mẹ nhưng tỉnh dậy vẫn là chiếc giường đơn lẻ mà nước mắt thấm đầy trên má. Sau một thời gian rồi dần dần những người thân, đồng hương xa xứ bên cạnh động viên an ủi và chia sẽ, rồi hiểu được nguyên do Mẹ phải trở về Việt Nam nên dần nguôi ngoai bớt, cho đến ngày trưởng thành Di được Dượng tôi sau này yêu thương thành vợ thành chồng, sinh được 5 chị em sống cuộc đời bình dị. Trong công cuộc giải phóng dân tộc Lào, Dì tôi đã từng tham gia ủng hộ tích cực đóng góp vật chất, hỗ trợ tinh thần nuôi bộ đội Parthét Lào và hòa bình lập lại đã được khen thưởng của Chính phủ.
Từ cuộc gặp gỡ về sau này Dì và các anh chị em chúng tôi thường qua lại thăm nhau, chúng tôi rất thương Dì như là một phần bù đắp lại nhưng đau buồn thiệt thòi của quá khứ và Ngọai tôi cùng Dì đã sống trong những ngày đầy viên mãn có hậu của tình thương yêu con cháu, gia đình cho đến năm 1982 Bà ngoại qua đời.
Chúng tôi viết về Dì về gia đình tôi như một nhân chứng sống giao thời giữa cuộc chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước. Đã từng chứng kiến những mất mát, đau thương tàn khốc của chiến tranh, cảnh chia ly và đói nghèo một thuở xa xôi mà nay câu chuyện như là chuyện lạ quanh tôi và với những thế hệ trẻ sinh ra khi cuộc sống đầy đủ vật chất và tình thương yêu. Câu chuyện của gia đình tôi có lẽ cũng không thể sánh bằng những số phận còn đau khổ hy sinh hơn của biết bao nhiêu gia đình Việt Nam khác mà mỗi hoàn cảnh là mỗi câu chuyện khác nhau trong cảnh chiến tranh và chia cắt.
Xuân đã về trong tiết trời se lạnh của mảnh đất phương Nam. Những dòng viết cuối về câu chuyện của Dì trào dâng cảm xúc trong chúng tôi như cùng chia sẽ tri ân những ân tình đã qua với một ước mong về một đất nước Việt Nam mãi mãi hòa bình, phát triển thịnh vượng, một con Rồng Châu Á đang bay, bay lên cao, cao mãi...
Nguyễn Thanh Phiên