Hưởng ứng lời đề nghị của Ban Biên tập về việc kể lại những kỷ niệm trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước hào hùng của dân tộc ta, nhiều tác giả đã gửi bài viết với những câu chuyện chân thực, cảm động đến Website.
Sau đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu các bài viết đó đến quý vị và bạn đọc.
CHUYỆN KỂ VỀ KỶ NIỆM NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
Hưởng ứng lời đề nghị của Ban Biên tập về việc kể lại những kỷ niệm trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước hào hùng của dân tộc ta, nhiều tác giả đã gửi bài viết với những câu chuyện chân thực, cảm động đến Website. Sau đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu các bài viết đó đến quý vị và bạn đọc.
I. KỶ NIỆM ĐI LẤY DÙ PHÁO SÁNG CỦA MỸ
Ở cái nơi, trên mảnh đất bên ngã ba sông Nhật Lệ có cây đa cổ thụ soi bóng xuống dòng sông, có bến nước, sân đình, có những lũy tre xanh ru mình trong gió; nơi ấp ủ bao kỷ niệm của thời ấu thơ và nhiều dấu ấn đi qua mãi mãi không thể bao giờ quên được.
Hồi ấy, giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại đánh phá quyết liệt hòng ngăn chặn con đường tiếp viện của miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Làng Trần Xá lúc ấy hứng chịu cơ man nào là bom đạn của Mỹ. Các đơn vị bộ đội thuộc Đoàn 559, dân công hỏa tuyến về ở trong Làng. Lũ trẻ chúng tôi thích lắm vì nhà nào cũng được đón các chú, các o về ở với gia đình. Chúng tôi được ăn lương khô, thịt hộp của bộ đội, lại được các chú cho sờ khẩu súng hay lựu đạn. Thời ấy, bọn con trai chúng tôi gan lắm, chẳng biết sợ là gì cả. Đêm đêm máy bay thả pháo sáng, súng phòng không bắn lên rồi bom Mỹ ném sáng cả vùng trời phía cầu Long Đại mà chẳng chịu xuống hầm, tranh nhau đi lấy dù, ống pháo sáng.
…Nhớ lại hồi ấy mà bây giờ mới thấy sợ ...
Đó là buổi tối một ngày mùa hè năm 1968, tôi và Quang (anh của Én - đã mất vì canông từ Hạm đội 7 Mỹ bắn) theo dõi một chiếc dù pháo sáng và quyết định bám sát nó đến cùng. Mặc dầu lúc đó đạn cao xạ bắn sáng trời, máy bay F4H từng tốp trút bom xuống phà Long Đại nhưng chúng tôi không hề nao núng. Lúc này đã 9 giờ đêm, tôi và Quang theo đường giếng Thùng băng qua Bàu (lúc trước Làng có một cái Bàu rộng và sâu theo hướng giếng Thùng đi ra phía bờ kênh) hướng về dù bay. Trên đầu chúng tôi chiếc dù đã hạ dần độ cao và trôi theo làn gió thổi. Quang đuổi kịp túm lấy giây, tôi lao đến hỗ trợ nhưng dù lại lượn lên cao. Cả hai thằng đeo theo dù băng qua kênh dọc ra kênh ngang. Dù từ từ hạ xuống, chân chúng tôi chạm đất, rồi lại nhấc lên cao. May quá cuối cùng nhờ bờ kênh cao, chúng tôi cùng đồng thời chạm đất. Chiếc dù hạ xuống trắng phau trùm lên phía bên kia bờ kênh ngang và kéo tôi và Quang xuống nước làm ướt cả người. Tôi và Quang vội lên bờ để thu chiến lợi phẩm thì ôi thôi bọn trẻ Hiển Lộc như từ trên trời rơi xuống đã nhanh tay lấy dao cắt dây lấy phần dù cuốn lại. Thế là hết, biết làm sao bây giờ, đánh nhau để giành thì không được, phía đối phương những 6 thằng. Tôi và Quang cãi nhau một hồi rồi cuối cùng đành phải nhảy xuống kênh bơi về vì thua cả thế và lý. Chuyện xảy ra mấy chục năm rồi bây giờ tuổi đã sáu mươi nhớ lại như mới hôm qua.
Quang ơi! bạn ở chín suối đừng trách mình kể lại chuyện này nhé. Lũ trẻ chúng ta ngày ấy bây giờ đứa còn đứa mất, đứa ở xa đứa ở gần; có thằng làm quan có thằng làm dân cày ruộng. Bạn bè ôn lại để nhớ một thời ấu thơ trên quê hương Trần Xá yêu dấu. Chúng mình sẽ sống có ích và cố gắng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp phải không các bạn.
Tháng 4/2015
Nguyễn Đức Kỳ
II. NGÀY ĐẦU TIÊN MÁY BAY MỸ NÉM BOM MIỀN BẮC
Sáng ấy, tôi cùng ba tôi đi rú chặt săng 1 để làm nhà bếp. Theo đường độông trữa 2 rẽ về Khe Chuối, hai cha con tìm mãi mới được hai cây gỗ vừa ý. Ông vung rựa chặt một cây to cho mình còn cây nhỏ cho tôi. Xong việc hai cha con thông thả ra bến đò về nhà. Ra đến đồi Giếng Tiêu đã hơn 11 giờ trưa. Bổng có tiếng gì ù ù vọng lại rồi to dần. Ngước nhìn lên trời tôi thấy một vật to di chuyển dọc phía biển kèm theo tiếng gầm rú vang trời và cả tiếng nổ to ở phía bắc. Sợ quá tôi trốn vào bụi cây không dám nhìn. Nhưng trốn vào bụi rồi mà vẫn nghe tiếng nó gầm rú khủng khiếp.
Hồi đó quê mình còn lạc hậu. Lứa như chúng tôi có được tiếp xúc với điện và các vật dụng sử dụng điện đâu còn nói gì đến máy bay. Cả Làng chỉ có đôi ba chiếc xe đạp là oai lắm rồi. Vì vậy mà lần đầu tiên thấy vật bay trên trời với tiếng gầm rú, bom nổ làm sao không hoảng được.
Riêng ba tôi, ông quen chiến tranh chống Pháp rồi nên tỏ ra bình tĩnh. Ông ngồi trên đồi dõi theo và bảo tôi “Đây là máy bay con ạ, hiện nó đang bay và ném bom ở xa, con đừng sợ, cứ lên đây mà coi”. Nghe ông nói tôi vững dạ phần nào nhưng vẫn sợ không dám nhìn và cứ nép người vào ông vì sợ máy bay nhìn thấy. Mãi sau hơn một tiếng đồng hồ, tiếng máy bay mới chấm dứt. Hai cha con ra bến đò về nhà.
Về sau tôi mới biết đó là ngày đầu tiên, ngày mồng 5 tháng 8 năm 1964, máy bay Mỹ ra bắn phá miền Bắc trong đó có Quảng Bình quê ta. Kỷ niệm đó in đậm trong tâm trí trẻ thơ của tôi cho đến khi trưởng thành.
Chú thích:
- (1) Săng: Gỗ
- (2) Độông trữa: Hòn núi giữa.
III. ĐÊM ĐẦU TIÊN MÁY BAY MỸ NÉM BOM LÀNG TA
Lúc này đã là tháng 12 năm 1964, giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại được mấy tháng rồi. Hồi đó chúng tôi được cán bộ phổ biến là phải che đèn buổi tối khi học, ban ngày không được mặc áo trắng và không được tụ tập hoặc đi đông người để tránh máy bay Mỹ phát hiện ném bom. Có lẽ do thực hiện triệt để nên cả làng chưa bị oanh tạc lần nào.
Hôm đó cũng như mọi hôm, sau 9 giờ tối cả nhà đi ngủ. Tôi cùng chú em trai là Dòng nằm chung một giường. Đêm yên tĩnh, cả Làng chìm trong lặng yên. Anh em tôi say giấc nồng. Bổng tôi tỉnh giấc khi nghe tiếng nổ kinh khủng xé trời và tiếng máy bay rít qua. Cùng lúc là những tiếng loảng xoảng rào rào rơi xuống làm đứt màn và đập lên người hai anh em tôi. Hoảng hốt tôi vùng dậy thì thấy ngôi nhà trống hoác. Nhìn quanh, bàn ghế, bát đũa, xoong nồi, quần áo, vật dụng bay tứ tung. Tôi nghe tiếng gọi của ba mẹ và may mắn làm sao là cả nhà không ai việc gì. Thật hú vía, chúng tôi tạm lánh sang nhà hàng xóm.
Sáng ra, cảnh tượng trông thật khủng khiếp. Ngay phía trước cách nhà tôi 25 mét là một hố bom còn ám khói đen ngòm sâu hắm. Xung quanh cỏ cây bị phát ngang, đất đá chỗ dồn đống thành gò tròn quanh miệng hố bom, chỗ lún sâu xuống do đất bị bắn lên rồi rơi từ trên cao xuống. Cây dừa trước cửa nhà tôi bị hơi bom dập nát toe tua, những cây con khác thấp hơn bị quật tơi tả. Vào nhà mới thấy sức công phá của bom thật ghê gớm. Cả ngôi nhà ngói hai gian hai chái bị xiêu về hướng bắc trống hơ trống hoác không còn một viên ngói nào. Trong nhà đầy mảnh ngói vỡ, đất đá phủ cả nền nhà. Chăn, màn, chiếu, áo quần và cả thùng gạo, nước uống cũng bị hơi bom thổi bay vương vãi khắp nơi. Nhìn cảnh đó ai cũng ái ngại lắc đầu. Đúng là chiến tranh đã đến tận từng nhà Làng ta rồi.
Đây là đợt ném bom tọa độ đầu tiên gồm 4 quả xuống làng. May mà chỉ có mấy người bị thương nhẹ vì mảnh bom. Nhưng cũng từ đây cả Làng bắt đầu cuộc chiến mới và phải đối mặt với những đợt ném bom dã man của giặc Mỹ.
IV. TRẢ LẠI TÊN CHO LIỆT SỸ VÔ DANH
Bây giờ đã là những ngày đầu tháng 7 năm 1972, giặc Mỹ tăng cường đánh phá ác liệt miền Bắc, nhất là khu vưc Quảng Bình, điểm huyết mạch mà ta phải vượt qua trước khi vào tăng viện người, vũ khí, phương tiện cho miền Nam. Thời điểm này, máy bay Mỹ suốt đêm ngày gầm rú bắn phá liên miên. Nhất là hai bến phá Quán Hàu, Long Đại và dọc tuyến đường 1, đường 15 pháo sáng chăng hầu như suốt đêm. Tuy vậy những đoàn xe vẫn phải vượt bom đạn để chở hàng ra tiền tuyến.
Đến ở nhà tôi những ngày đó là chú Chung thuộc Binh trạm 559. Sau mấy ngày hoàn thành chuyến xe chở hàng vào tuyến lửa chú lại quay ra. Ban ngày chú dấu xe rất kỹ để máy bay không phát hiện được. Ban đêm chú lại lên đường xuống bãi Vĩnh Tuy lấy hàng chuyển vào Nam. Chú Chung rất tâm lý, hay chơi và trò chuyện cùng các cháu, nhất là tôi vì đã lớn gần mười tám tuổi rồi. Hai chú cháu cứ quấn quýt nhau như đôi bạn chí thân. Vì thấy bom đạn ác liệt quá nên cả nhà tôi, nhất là mẹ tôi rất lo lắng cho chú và luôn dặn chú cẩn thận. Còn chú khi nghe mẹ tôi nhắc thì cười vang và nói “Mẹ ơi, sống, chết nó có số rồi, con không sao đâu, mẹ đừng lo cho con”.
Một buổi chiều, cũng như những lần trước, mẹ và anh em tôi tiễn chú ra sông để sang đường 15 lấy xe làm nhiệm vụ. Khi vừa đi ra đến ngõ, tự nhiên chú nói to với mẹ tôi “Mẹ ơi, sao hôm nay con thèm thịt gà quá”. Mẹ tôi mắng yêu “Cả ngày thì chẳng nói, chẳng rằng, chừ đi rồi mần1 răng kịp”. Nói vậy nhưng mẹ bảo chú chờ và giục mấy anh em tôi đuổi gà để bắt. Nhờ có tấm lưới giăng xung quanh vườn (vì nhà tôi hồi đó đơm chim nên hay lấy những tay lưới cũ giăng để trồng rau khỏi bị gà phá) nên anh em tôi bắt được một chú gà trống. Mẹ tôi đưa gà và dặn chú “Giờ làm không kịp, chú cầm theo khi mô rảnh thì làm thịt mà ăn kẻo thèm nghe”. Chú cầm con gà đang kêu quang quoác vừa đi vừa nói “Con cám ơn mẹ, con cám ơn mẹ” rồi bóng chú khuất dần.
Đêm đến, vẫn là điệp khúc pháo sáng, máy bay gầm rú, quần đảo, ném bom và chúng tôi ngủ thiếp đi dưới hầm. Trong giấc ngủ, tôi vẫn nghe những âm thanh rền rỉ của 3 loạt bom B52 nổ rất gần làm rung chuyển cả căn hầm.
Trời sáng dần nhưng còn rất sớm. Tôi tỉnh giấc khi nghe những tiếng đục gỗ, búa gõ ngay nhà kho cạnh nhà. Tôi vội hỏi mẹ có chuyện gì mà người ta gõ sớm thế. Mẹ tôi nghẹn ngào “Chú Chung mất rồi con ơi, tối qua B52 ném bom xuống bãi Vĩnh Tuy, chú Chung và mười mấy cô, chú dân công bị trúng bom và anh dũng hy sinh”.
Trời ơi! Không thể thế được, không! Con không tin, con không tin. Tôi hét lên và òa khóc. Làm sao mà mới hôm qua chú còn đùa với tôi, khi đi chú còn xách con gà kêu quang quác cười nói oang oang mà giờ đã mất và đang nằm ở ngay nhà kho rồi. Tôi cảm thấy đau đớn quá, trái tim non nớt bị tổn thương quá nặng nề. Tôi cứ ngồi khóc nức nở, nước mắt ướt đẩm cả áo. Lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy thế nào là nỗi đau mất mát khi người thân yêu của mình ra đi. Mãi sau bố mẹ mới dỗ tôi nín được.
Nghĩa trang Liệt sĩ xã Hàm Ninh
Chiến tranh thật tàn khốc. Chú Chung và các cô chú khác khi mất có người thân nào bên cạnh đâu. Bố mẹ tôi thương chú Chung quá nên làm một mâm cơm để cúng cho Chú. Đại diện đơn vị là một chú có quân hàm thượng úy có về Làng để làm các thủ tục cho liệt sỹ Chung và ghé dự bửa cơm cúng chú Chung rồi ra đi.
Tháng 8 năm 1972 tôi lên đường nhập ngũ. Từ đó tôi không còn được thắp hương cho chú nữa vì ở xa, chiến tranh lại căng thẳng và phần vì mộ chú (ở khu vực vườn phụ lão) lại bị bom ném bay mất nấm. Năm 1987 khi về quê, tôi và em trai là Khương có đi tìm lại mộ Chú một lần mà không thấy.
Khoảng mùa hè những năm 2000, Nhà nước có chủ trương quy tập, tìm kiếm hài cốt liệt sỹ. Mẹ tôi báo lên Huyện đội và Xã đội về trường hợp chú Chung hy sinh và đề nghị cho tìm hài cốt bị thất lạc của Chú. Gần suốt một ngày đội quy tập đào xới tung cả khoảnh vườn mà không tìm thấy tung tích hài cốt đâu cả. Nhiều người nhìn mẹ tôi ái ngại vì sợ tuổi già nhầm lẫn chăng. Nhưng mẹ tôi tin rằng chú Chung ở quanh đâu đây. Mẹ thắp hương cầu khấn chú có linh thiêng thì chỉ cho mọi người biết để đưa về quy tập ở Đài Liệt sỹ xã. Và thật may mắn khi đội quy tập đào thêm 2 m về phía đông thì gặp được ngôi mộ và hài cốt Chú. Trên tấm bia khắc vào đá chỉ còn mỗi tên họ và chữ cái đầu của tên đệm “Võ Đ”, còn phần sau đệm và tên bị bom phạt mất. Năm đó chú Chung được đưa vào Nghĩa trang Liệt sỹ xã cho đến nay.
Nhưng thật đau lòng vì đơn vị quản lý Chú ngày trước không có người về nhận và trên bia khắc chỉ còn chữ “Võ Đ”. Vì vậy trên nấm mộ của chú đang ghi là Liệt sỹ vô danh. Chỉ có mấy anh em tôi thì biết chắc chắn đó là chú Võ Đ… Chung (hay Trung) quê Hà Nam, bộ đội lái xe hy sinh tháng 7 năm 1972. Đã mấy lần tôi có liên hệ với những đơn vị bộ đội vận tải mà mùa hè năm 1972 hay chạy cung đường này nhưng vẫn chưa có kết quả.
Ngôi mộ vô danh của Liệt sĩ Chung tại Nghĩa trang xã Hàm Ninh
Khi tôi ngồi viết những dòng này, lòng tôi vẫn hy vọng qua thông tin trên, đơn vị, gia đình, bạn bè hay ai biết được Liệt sỹ Võ Đ… Chung (hay Trung vì miền Bắc hay gọi Trung thành Chung) thì hãy cùng chúng tôi chung tay để trả lại tên cho Chú trên nấm mồ vẫn đang còn ghi là “Liệt sỹ vô danh”.
Chú thích:
- (1) Mần: Làm
Nguyễn Thanh Tùng
Số 8 ngõ 142 phố Quan Nhân, Nhân Chính, Hà Nội
ĐT: 0913076561