TRẢ LẠI TÊN CHO LIỆT SỸ VÔ DANH

Đến thời điểm này, máy bay Mỹ hầu như làm chủ bầu trời. Suốt đêm ngày chúng gầm rú bắn phá liên miên. Nhất là ban đêm hai bến phá là Quán Hàu, Long Đại và dọc tuyến đường 1, đường 15 pháo sáng chăng hầu như suốt đêm.
Tuy vậy những đoàn xe vẫn phải vượt bom đạn để chở hàng ra tiền tuyến.
     Đến ở nhà tôi những ngày đó là chú Chung (hay Trung vì tiếng miền Bắc hay gọi Trung thành Chung). Sau mấy ngày hoàn thành chuyến xe chở hàng vào tuyến lửa chú lại quay ra. Ban ngày chú dấu xe rất kỹ để máy bay không phát hiện được. Ban đêm chú lại lên đường xuống bãi hàng Vĩnh Tuy lấy hàng chuyển vào Nam. Chú Chung rất tâm lý, hay chơi và chuyện trò cùng chúng tôi, nhất là tôi vì đã gần mười tám tuổi rồi. Hai chú cháu cứ quấn quýt nhau như đôi bạn chí thân. Vì thấy bom đạn ác liệt quá nên gia đình chúng tôi, nhất là mẹ tôi rất lo lắng cho chú và luôn dặn chú cẩn thận. Còn chú khi nghe mẹ tôi nhắc thì cười vang và nói “Mẹ ơi, sống, chết nó có số rồi, con không sao đâu, mẹ đừng lo cho con”.
     Một buổi chiều, cũng như những lần trước, mẹ và anh em tôi tiễn chú ra sông để sang đường 15. Khi vừa đi ra khỏi nhà tự nhiên chú vừa cười vừa nói to với mẹ tôi “Mẹ ơi, sao hôm nay con thèm thịt gà quá”. Mẹ tôi mắng yêu “Cả ngày thì chẳng nói, chẳng rằng, chừ đi rồi mần răng kịp”. Nói vậy nhưng mẹ bảo chú chờ và giục mấy anh em tôi đuổi gà để bắt. Nhờ có tấm lưới giăng xung quanh vườn (vì nhà tôi hồi đó đơm chim nên hay lấy những tay lưới cũ giăng để trồng rau khỏi bị gà phá) nên anh em tôi bắt được một chú gà trống. Mẹ tôi đưa gà và dặn chú “Giờ làm không kịp, chú cầm theo khi rãnh thì làm thịt mà ăn kẻo thèm nghe”. Chú cầm con gà đang kêu quoác quoác vừa đi vừa nói “Con cám ơn mẹ, con cám ơn mẹ” rồi khuất dần.
     Đêm đến, vẫn là điệp khúc pháo sáng, máy bay gầm rú, quần đảo, ném bom và chúng tôi ngủ thiếp đi dưới hầm. Trong giấc ngủ, tôi vẫn nghe những âm thanh rền rĩ của 3 loạt bom B52 nổ rất gần làm rung chuyển cả trời đất.
     Trời sáng dần nhưng còn rất sớm. Tôi tỉnh giấc khi nghe những tiếng đục gỗ, búa gõ ngay nhà kho cạnh nhà. Tôi vội hỏi mẹ có chuyện gì mà người ta gõ sớm thế. Mẹ tôi nghẹn ngào “Chú chung mất rồi con ơi, tối qua B52 ném bom xuống bãi vĩnh Tuy. Chú Chung và mười mấy cô, chú dân công  bị trúng bom và hy sinh”.
     Trời ơi! Không thể thế được, không! Con không tin, con không tin. Tôi hét lên và òa khóc. Làm sao mà mới hôm qua đây khi ra đi chú còn xách con gà kêu quang quác mà giờ đã mất và đang nằm ở ngay nhà kho rồi. Tôi cảm thấy đau đớn quá, trái tim non nớt bị tổn thương quá nặng nề. Tôi cứ ngồi khóc nức nở, nước mắt ướt đẩm cả áo. Lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy thế nào là nổi đau mất mát khi người thân yêu của mình ra đi. Mãi sau bố mẹ tôi mới dỗ tôi  nín được.
     Chiến tranh thật tàn khốc, chú Chung và các cô chú khác khi mất có người thân nào bên cạnh đâu. Bố mẹ tôi thương chú Chung quá nên làm một mâm cơm để cúng cho Chú. Đại diện đơn vị là một chú có quân hàm thượng úy có về Làng để làm các thủ tục cho liệt sỹ Chung và ghé dự bửa cơm cúng chú Chung rồi ra đi.
     Tháng 8 năm 1972 tôi lên đường nhập ngũ. Từ đó tôi không còn được thắp hương cho chú nữa vì chiến tranh căng thẳng và phần vì mộ chú (ở khu vực vườn phụ lão) lại bị bom hất bay mất. Năm 1987 khi về quê, tôi và em trai là Khương có đi tìm mộ lại mà không thấy.
     Khoảng mùa hè những năm 2000, Nhà nước có chủ trương quy tập, tìm kiếm hài cốt liệt sỹ. Mẹ tôi báo lên Huyện đội và Xã đội về trường hợp chú Chung hy sinh và đề nghị cho tìm hài cốt bị thất lạc của chú. Gần suốt một ngày đội quy tập đào xới tung cả khoảnh vườn mà không tìm thấy tung tích. Nhiều người nhìn mẹ tôi ái ngại vì sợ tuổi già nhầm lẫn chăng. Nhưng mẹ tôi tin rằng chú Chung ở quanh đâu đây. Mẹ thắp hương cầu khấn chú có linh thiêng thì chỉ cho mọi người để đưa về quy tập ở Đài Liệt sỹ xã. Và thật may mắn khi đội quy tập đào thêm 1 m về phía đông thì gặp được hài cốt chú. Trên bia khắc vào đá chỉ còn mỗi tên họ “Võ”, còn đệm và tên bị bom phạt mất. Năm đó chú Chung được đưa vào Nghĩa trang Liệt sỹ xã cho đến nay.
     Nhưng thật đau lòng vì bị thất lạc đơn vị, quê quán và bia khắc chỉ còn họ “Võ” nên trên nấm mộ của chú vẫn ghi là Liệt sỹ vô danh. Chỉ có mấy anh em tôi thì biết chắc chắn đó là chú Võ … Chung (hay Trung) quê Hà Nam, bộ đội lái xe hy sinh tháng 7 năm 1972 của chúng tôi. Đã mấy lần tôi có liên hệ với đơn vị bộ đội vận tải mà mùa hè năm 1972 chạy cung đường này nhưng vẫn chưa kết quả.
     Khi tôi ngồi viết những dòng này, lòng vẫn hy vọng qua thông tin, đơn vị, gia đình, bạn bè hay ai biết được Liệt sỹ Võ … Chung thì hãy cùng chúng tôi chung tay để trả lại tên cho Chú trên nấm mồ vẫn đang còn ghi là Liệt sỹ vô danh.
Nguyễn Thanh Tùng
Số 8 ngõ 142 phố Quan Nhân, Nhân Chính, Hà Nội
ĐT: 0913076561.