Ngày trước, làng Trần Xá thuần nông, một năm 2 vụ lúa. Mùa khô đất chai cứng, mùa mưa đồng điền ngập nước. Việc đống áng cày bừa chỉ có trâu mới đủ sức làm, tuyệt nhiên không có bò. Khi nông nhàn, vài nhà thỉnh thoảng đưa trâu vào rừng, kéo gỗ gọi là lĩa gỗ. Đàn trâu làng mình hồi đó to nhỏ khoảng 23-30 con. Khi ngoài đồng lúa đã lên xanh đàn trâu phải vượt sông qua Rú Ngang để kiếm ăn, chiều tối mới quay về. Trong đàn có con đầu đàn có một mõ tre treo ở cổ phát ra tiếng lóc cóc nhờ đó mà các thành viên trong đàn không đi xa, bị lạc.
Hình ảnh đẹp nhất là lúc hoàng hôn, khi dãy Trường Sơn mờ ảo, phủ bóng lam chiều, mặt sông Nhật Lệ trong xanh phẵng lặng, đàn trâu đủng đỉnh ra sông trở về. Nghé con theo mẹ xuống nước, ghé đầu lên lưng mẹ để dìu qua sông. Vài đứa trẻ mình trần vắt vẻo trên lưng trâu quẩy tung xuống nước. Cảnh quê thật thanh bình yên ả. Về đến bến, trâu được chủ đón về chuồng, vài con cũng tự tìm về khi không có người đón. Vậy nên có câu: lạc đường theo chó, lạc ngõ theo trâu, hiếm có con vật nào gắn bó trung thành với chủ như trâu.
Còn nhớ đàn trâu có một con trâu trắng (Bạch tạng). Ngày nay trâu trắng rất có giá trị, da, sừng, móng guốc là những vị thuốc quý các thầy thuốc Đông Y hay dùng.
Nhân năm Sửu (Tân Sửu) xin gửi đến bạn đọc một số mẩu chuyện về trâu làng ta trước đây.
Trân trọng!
TÁC GIẢ
Trâu làng và truyền thuyết tâm linh
Hồi còn học cấp hai, lũ bạn ở Hiền Ninh, Xuân Ninh và An Ninh kháo nhau rằng, hễ cứ thấy dân nhà Tràn (Tên gọi dân dã làng Trần Xá) lùa trâu đi qua thế nào cũng có mưa. Sau này lớn lên lấy vợ ở Vạn Ninh hồi đó gọi là Vạn Xuân, bố vợ cũng nói: Thấy dân nhà Tràn dẫn trâu qua làng là chuẩn bị mưa. Tôi thắc mắc hỏi các cụ cao niên thì được giải thích: Làng ta ruộng đồng tuy nhiều nhưng làm ruộng phụ thuộc vào thời tiết. Năm nào mưa thuận gió hòa thì đủ ăn, năm nào gặp lũ lụt tiểu mãn thì mất mùa, dân đói. Từ đó mới làm thêm ruộng sâu. Ruộng sâu là vùng đồng hoang nằm nằm giữa các xã Hồng Thủy, Vạn Ninh, Hoa Thủy, An Thủy. Muốn làm ruộng ở đó phải đi qua các xã Hiền Ninh, An Ninh và Hoa Thủy. Như thế đàn trâu đã vô tình dẫm lên mình rồng nên rồng mới phun mưa. Theo các cụ, đầu rồng là ở núi Thần Đinh, đuôi rồng là ở doi đất cồn dừa, xã Hiền Ninh - nơi bến đò ngang Trần Xá - Cổ Hiền chuyên chở học sinh đi học và bà con đi chợ. Truyền thuyết cứ kéo dài và bí ẩn.
Mãi sau này lớn lên bí mật mới được sáng tỏ. Thì ra, các lão nông tri điền làng ta qua bao đời canh tác đã đúc rút được kinh nghiệm, tính được quy luật thời tiết nông vụ, chọn đúng thời điểm để cày bừa, giống má, đất làm xong cũng là lúc mưa xuống. Mạ sẵn sàng xuống ruộng. Như vậy, đàn trâu làng đi qua các xã gây mưa đã được giải mã.
Trâu và những điệu hò kéo gỗ
Trâu kéo gỗ còn gọi là trâu lỉa gỗ. Tôi còn nhớ, ông N, bố anh Đức Quang có con trâu đực to khỏe, có bờm ở cổ. Có lần, tôi theo ông N vào rừng xem trâu lỉa. Những súc gỗ to, người không khuân vác nổi phải dùng trâu kéo. Ai đã từng xem trâu lỉa gỗ từ dưới khe lên thì mới ngạc nhiên đến thán phục. Đường lên dốc trơn trượt, dứt câu hò, trâu cong mình lại, bốn chân bám mặt đường, bươn đi từng đoạn. Có lúc, trâu phải dùng sừng mốc vào cành cây hai bên, chờ chủ dùng đòn xeo trợ giúp để bứt qua những đoạn khó. Lại tiếp những câu hò, lại thêm những đoạn dốc đi qua, cuối cùng cũng đến được nơi cần đến. Kéo gỗ lên dốc đã khó, kéo gỗ xuống dốc cũng chẳng dễ dàng gì. Có đoạn dốc lớn, súc gỗ như muốn lao vào trâu và người. Lúc này, trâu quỳ hai chân trượt xuống để hãm đà, chờ chủ dùng đòn xeo trợ giúp. Sự kết hợp giữa trâu và người thật nhịp nhàng, chính xác, nếu sơ suất có thể xảy ra tai nạn bất cứ lúc nào.
Thỉnh thoảng, thấy ông N có lỉa gỗ về nhà qua trước đường làng, bọn trẻ nhỏ theo sau reo hò thích thú. Con trâu gióng tai nghe, hò dứt câu, trâu cong mình lại, bốn châm bám chặt mặt đất, bươn mình về phía trước.
Trâu kéo gỗ (Trâu lỉa) được chăm sóc kỹ lưỡng từ thức ăn, nước uống, chuồng trại nên con nào cũng béo tốt. Chúng khăng khít gắn bó với chủ như một thành viên trong gia đình. Thật xứng đáng được tôn vinh “Con trâu là đầu cơ nghiệp”.
Trâu đẹp nhất là con trâu đầu đàn
Tôi nhớ xóm tôi có con trâu đực của ông Võ Trường to khỏe béo tốt đạt chuẩn: “Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, tai lá mít, đít lồng bàn”. Ông Trường xem trâu như người bạn thân thiết. Vào lúc nông vụ, tầm khoảng 5h sáng, ông thường cưỡi trâu qua trước đường làng trong ánh bình minh. Ông hay hát những bài đồng dao, thỉnh thoảng điểm thêm những hồi tù và như báo thức cho cả làng chuẩn bị một ngày cày bừa đồng áng. Chiều tối, ông dẫn trâu ra sông tắm táp, kỳ cọ. Nghe đồn rằng: Ông còn dùng mảnh chai, mảnh sành để mài gọt cho đôi sừng trâu trơn bóng, sắc nhọn để cho dáng vóc của trâu thêm phần oai vệ.
Năm nay, ông Võ Trường mừng thọ tuổi 85, khi nghe nhắc lại những kỷ niệm về thời niên thiếu của mình, chắc hẳn ông vui nhiều lắm.
Chiếc tù và được chế tác từ sừng trâu và điệu nhạc độc đáo
Trong kho tàng nhạc cụ Việt Nam, có những loại nhạc cụ được chế tác từ những vật liệu có sẵn, đơn giản nhưng có giá trị độc đáo, không những nổi tiếng trong nước mà còn vang xa khắp thế giới như: đàn đá, đàn tơ rưng, cồng chiêng, sáo trúc, đàn bầu. Tuy vậy, ở làng ta, chiếc sừng trâu được chế tác thành một loại nhạc cụ thật độc đáo đó là chiếc tù và.
Chiếc sừng trâu được đẽo gọt, đầu nhọn cắt một đoạn tạo lỗ. Người thổi tù và dẫn hơi vào lỗ sừng, vỗ nhịp tạo ra những âm thanh trầm hùng, ngân vang tiếng vọng đi xa hàng ngàn mét vẫn nghe rõ. Tù và hay dùng vào lúc mùa thu hoạch lúa từ đồng sâu Lệ Thủy về. Khi đoàn thuyền năm, sáu chiếc cách làng khoảng 1000m ngang thôn Trung Quán, tù và bắt đầu rúc lên từng hồi báo hiệu. Ở nhà, bà con chuẩn bị gióng gánh, đòn xóc để ra chuyển lúa về kho hợp tác xã. Thuyền càng về gần làng, tù và càng rúc hồi liên tục báo hiệu thuyền sắp cập bến. Cảnh làng quê yên bình trở nên náo nhiệt, đông vui. Vui nhất là bọn trẻ con được bố mẹ, anh chị cho những bọc trứng chim. Trứng gà nước, vịt trời đôi khi có cả chim non. Những xâu cá trầu, cá rô, cá diếc nướng vội qua lửa rơm rạ được thu nhặt trong quá trình gặt lúa. Đồng hoang Lệ Thủy trước đây vốn nổi tiếng có nhiều chim cá.
Con trâu gắn với ký ức tuổi thơ
Thời còn nhỏ được các bậc cao niên dạy rằng: Đời người có 3 việc lớn đó là: Lấy vợ, tậu trâu và làm nhà hay con Trâu là đầu cơ nghiệp. Điều đó khẳng định con trâu đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Ngày nay xã hội đã thay đổi, việc đồng cóng cày bừa đã được cơ khí hóa. Nhưng hình ảnh con Trâu vẫn mãi mãi lưu giữ trong tâm trí, không bao giờ phai. Những bài học thuộc lòng từ thời cấp 1 còn nhớ: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu; Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” hay “Trâu ơi ta bảo trâu này; Trâu ăn no cỏ, trâu cày với ta …”.
Ngày nay tôi, các bạn xa quê khi trở về thăm làng không còn thấy bóng dáng của trâu. Trâu chỉ còn lưu giữ hình ảnh đẹp mãi mãi trong ký ức mọi người.
Hồi còn học cấp hai, lũ bạn ở Hiền Ninh, Xuân Ninh và An Ninh kháo nhau rằng, hễ cứ thấy dân nhà Tràn (Tên gọi dân dã làng Trần Xá) lùa trâu đi qua thế nào cũng có mưa. Sau này lớn lên lấy vợ ở Vạn Ninh hồi đó gọi là Vạn Xuân, bố vợ cũng nói: Thấy dân nhà Tràn dẫn trâu qua làng là chuẩn bị mưa. Tôi thắc mắc hỏi các cụ cao niên thì được giải thích: Làng ta ruộng đồng tuy nhiều nhưng làm ruộng phụ thuộc vào thời tiết. Năm nào mưa thuận gió hòa thì đủ ăn, năm nào gặp lũ lụt tiểu mãn thì mất mùa, dân đói. Từ đó mới làm thêm ruộng sâu. Ruộng sâu là vùng đồng hoang nằm nằm giữa các xã Hồng Thủy, Vạn Ninh, Hoa Thủy, An Thủy. Muốn làm ruộng ở đó phải đi qua các xã Hiền Ninh, An Ninh và Hoa Thủy. Như thế đàn trâu đã vô tình dẫm lên mình rồng nên rồng mới phun mưa. Theo các cụ, đầu rồng là ở núi Thần Đinh, đuôi rồng là ở doi đất cồn dừa, xã Hiền Ninh - nơi bến đò ngang Trần Xá - Cổ Hiền chuyên chở học sinh đi học và bà con đi chợ. Truyền thuyết cứ kéo dài và bí ẩn.
Mãi sau này lớn lên bí mật mới được sáng tỏ. Thì ra, các lão nông tri điền làng ta qua bao đời canh tác đã đúc rút được kinh nghiệm, tính được quy luật thời tiết nông vụ, chọn đúng thời điểm để cày bừa, giống má, đất làm xong cũng là lúc mưa xuống. Mạ sẵn sàng xuống ruộng. Như vậy, đàn trâu làng đi qua các xã gây mưa đã được giải mã.
Trâu và những điệu hò kéo gỗ
Trâu kéo gỗ còn gọi là trâu lỉa gỗ. Tôi còn nhớ, ông N, bố anh Đức Quang có con trâu đực to khỏe, có bờm ở cổ. Có lần, tôi theo ông N vào rừng xem trâu lỉa. Những súc gỗ to, người không khuân vác nổi phải dùng trâu kéo. Ai đã từng xem trâu lỉa gỗ từ dưới khe lên thì mới ngạc nhiên đến thán phục. Đường lên dốc trơn trượt, dứt câu hò, trâu cong mình lại, bốn chân bám mặt đường, bươn đi từng đoạn. Có lúc, trâu phải dùng sừng mốc vào cành cây hai bên, chờ chủ dùng đòn xeo trợ giúp để bứt qua những đoạn khó. Lại tiếp những câu hò, lại thêm những đoạn dốc đi qua, cuối cùng cũng đến được nơi cần đến. Kéo gỗ lên dốc đã khó, kéo gỗ xuống dốc cũng chẳng dễ dàng gì. Có đoạn dốc lớn, súc gỗ như muốn lao vào trâu và người. Lúc này, trâu quỳ hai chân trượt xuống để hãm đà, chờ chủ dùng đòn xeo trợ giúp. Sự kết hợp giữa trâu và người thật nhịp nhàng, chính xác, nếu sơ suất có thể xảy ra tai nạn bất cứ lúc nào.
Thỉnh thoảng, thấy ông N có lỉa gỗ về nhà qua trước đường làng, bọn trẻ nhỏ theo sau reo hò thích thú. Con trâu gióng tai nghe, hò dứt câu, trâu cong mình lại, bốn châm bám chặt mặt đất, bươn mình về phía trước.
Trâu kéo gỗ (Trâu lỉa) được chăm sóc kỹ lưỡng từ thức ăn, nước uống, chuồng trại nên con nào cũng béo tốt. Chúng khăng khít gắn bó với chủ như một thành viên trong gia đình. Thật xứng đáng được tôn vinh “Con trâu là đầu cơ nghiệp”.
Trâu đẹp nhất là con trâu đầu đàn
Tôi nhớ xóm tôi có con trâu đực của ông Võ Trường to khỏe béo tốt đạt chuẩn: “Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, tai lá mít, đít lồng bàn”. Ông Trường xem trâu như người bạn thân thiết. Vào lúc nông vụ, tầm khoảng 5h sáng, ông thường cưỡi trâu qua trước đường làng trong ánh bình minh. Ông hay hát những bài đồng dao, thỉnh thoảng điểm thêm những hồi tù và như báo thức cho cả làng chuẩn bị một ngày cày bừa đồng áng. Chiều tối, ông dẫn trâu ra sông tắm táp, kỳ cọ. Nghe đồn rằng: Ông còn dùng mảnh chai, mảnh sành để mài gọt cho đôi sừng trâu trơn bóng, sắc nhọn để cho dáng vóc của trâu thêm phần oai vệ.
Năm nay, ông Võ Trường mừng thọ tuổi 85, khi nghe nhắc lại những kỷ niệm về thời niên thiếu của mình, chắc hẳn ông vui nhiều lắm.
Chiếc tù và được chế tác từ sừng trâu và điệu nhạc độc đáo
Trong kho tàng nhạc cụ Việt Nam, có những loại nhạc cụ được chế tác từ những vật liệu có sẵn, đơn giản nhưng có giá trị độc đáo, không những nổi tiếng trong nước mà còn vang xa khắp thế giới như: đàn đá, đàn tơ rưng, cồng chiêng, sáo trúc, đàn bầu. Tuy vậy, ở làng ta, chiếc sừng trâu được chế tác thành một loại nhạc cụ thật độc đáo đó là chiếc tù và.
Chiếc sừng trâu được đẽo gọt, đầu nhọn cắt một đoạn tạo lỗ. Người thổi tù và dẫn hơi vào lỗ sừng, vỗ nhịp tạo ra những âm thanh trầm hùng, ngân vang tiếng vọng đi xa hàng ngàn mét vẫn nghe rõ. Tù và hay dùng vào lúc mùa thu hoạch lúa từ đồng sâu Lệ Thủy về. Khi đoàn thuyền năm, sáu chiếc cách làng khoảng 1000m ngang thôn Trung Quán, tù và bắt đầu rúc lên từng hồi báo hiệu. Ở nhà, bà con chuẩn bị gióng gánh, đòn xóc để ra chuyển lúa về kho hợp tác xã. Thuyền càng về gần làng, tù và càng rúc hồi liên tục báo hiệu thuyền sắp cập bến. Cảnh làng quê yên bình trở nên náo nhiệt, đông vui. Vui nhất là bọn trẻ con được bố mẹ, anh chị cho những bọc trứng chim. Trứng gà nước, vịt trời đôi khi có cả chim non. Những xâu cá trầu, cá rô, cá diếc nướng vội qua lửa rơm rạ được thu nhặt trong quá trình gặt lúa. Đồng hoang Lệ Thủy trước đây vốn nổi tiếng có nhiều chim cá.
Con trâu gắn với ký ức tuổi thơ
Thời còn nhỏ được các bậc cao niên dạy rằng: Đời người có 3 việc lớn đó là: Lấy vợ, tậu trâu và làm nhà hay con Trâu là đầu cơ nghiệp. Điều đó khẳng định con trâu đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Ngày nay xã hội đã thay đổi, việc đồng cóng cày bừa đã được cơ khí hóa. Nhưng hình ảnh con Trâu vẫn mãi mãi lưu giữ trong tâm trí, không bao giờ phai. Những bài học thuộc lòng từ thời cấp 1 còn nhớ: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu; Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” hay “Trâu ơi ta bảo trâu này; Trâu ăn no cỏ, trâu cày với ta …”.
Ngày nay tôi, các bạn xa quê khi trở về thăm làng không còn thấy bóng dáng của trâu. Trâu chỉ còn lưu giữ hình ảnh đẹp mãi mãi trong ký ức mọi người.
Nguyễn Đức Bích
215 Phan Đình Phùng - Bắc Lý – Đồng Hới
ĐT: 0357601163
NHỮNG BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN ĐỨC BÍCH:
- http://langtranxa.vn/3cms/nho-mai-mot-lang-que.htm
-http://langtranxa.vn/3cms/loi-chuc-dau-xuan-nam-moi-tan-suu.htm
NHỮNG BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN ĐỨC BÍCH:
- http://langtranxa.vn/3cms/nho-mai-mot-lang-que.htm
-http://langtranxa.vn/3cms/loi-chuc-dau-xuan-nam-moi-tan-suu.htm