Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nhân ngày Thương Binh Liệt sỹ 27/7.
Bây giờ đã là những ngày đầu tháng 7 năm 1972, giặc Mỹ tăng cường đánh phá ác liệt miền Bắc, nhất là khu vưc Quảng Bình, điểm huyết mạch mà ta phải vượt qua trước khi vào tăng viện người, vũ khí, phương tiện cho miền Nam. Thời điểm này, máy bay Mỹ suốt đêm ngày gầm rú bắn phá liên miên. Nhất là hai bến phá Quán Hàu, Long Đại và dọc tuyến đường 1, đường 15 pháo sáng chăng hầu như suốt đêm. Tuy vậy những đoàn xe vẫn phải vượt bom đạn để chở hàng ra tiền tuyến.
Đến ở nhà tôi những ngày đó là chú Chung thuộc Binh trạm của Đoàn 559. Sau mấy ngày hoàn thành chuyến xe chở hàng vào tuyến lửa chú lại quay ra. Ban ngày chú dấu xe rất kỹ để máy bay không phát hiện được. Ban đêm chú lại lên đường xuống bãi Vĩnh Tuy và các điểm tập kết khác lấy hàng chuyển vào Nam. Chú Chung rất tâm lý, hay chơi và trò chuyện cùng các cháu, nhất là tôi vì đã lớn gần mười tám tuổi rồi. Hai chú cháu cứ quấn quýt nhau như đôi bạn chí thân. Vì thấy bom đạn ác liệt quá nên cả nhà tôi, nhất là mẹ tôi rất lo lắng cho chú và luôn dặn chú cẩn thận. Còn chú khi nghe mẹ tôi nhắc thì cười vang và nói: “Mẹ ơi, sống, chết nó có số rồi, con không sao đâu, mẹ đừng lo cho con”.

Nghĩa trang Liệt sĩ xã Hàm Ninh
Một buổi chiều, cũng như những lần trước, mẹ và anh em tôi tiễn chú ra sông để sang đường 15 lấy xe làm nhiệm vụ. Khi vừa đi ra đến ngõ, tự nhiên chú nói to với mẹ tôi “Mẹ ơi, sao hôm nay con thèm thịt gà quá”. Mẹ tôi mắng yêu “Cả ngày thì chẳng nói, chẳng rằng, chừ đi rồi mần(1) răng kịp”. Nói vậy nhưng mẹ bảo chú chờ và giục mấy anh em tôi đuổi gà để bắt. Nhờ có tấm lưới giăng xung quanh vườn (vì nhà tôi hồi đó đơm chim nên hay lấy những tay lưới cũ giăng để trồng rau khỏi bị gà phá) mà anh em tôi bắt được một chú gà trống. Mẹ tôi đưa gà và dặn chú “Giờ làm không kịp, chú cầm theo khi mô rảnh thì làm thịt mà ăn kẻo thèm nghe”. Chú cầm con gà đang kêu quang quoác vừa đi vừa nói “Con cám ơn mẹ, con cám ơn mẹ” rồi bóng chú khuất dần.

Ngôi mộ vô danh của Liệt sĩ Chung tại Nghĩa trang xã Hàm Ninh
Đêm đến, vẫn là điệp khúc pháo sáng, máy bay gầm rú, quần đảo, ném bom và chúng tôi ngủ thiếp đi dưới hầm. Trong giấc ngủ, tôi vẫn nghe những âm thanh rền rỉ của 3 loạt bom B52 nổ rất gần làm rung chuyển cả căn hầm. Trời sáng dần nhưng còn rất sớm. Tôi tỉnh giấc khi nghe những tiếng đục gỗ, búa gõ ngay nhà kho cạnh nhà. Tôi vội hỏi mẹ có chuyện gì mà người ta gõ sớm thế. Mẹ tôi nghẹn ngào “Chú Chung mất rồi con ơi, tối qua B52 ném bom xuống bãi Vĩnh Tuy, chú Chung và mười mấy cô, chú dân công bị trúng bom và anh dũng hy sinh”.
Trời ơi! Không thể thế được, không! Con không tin, con không tin. Tôi hét lên và òa khóc. Làm sao mà mới hôm qua chú còn đùa với tôi, khi đi chú còn xách con gà kêu quang quác cười nói oang oang mà giờ đã mất và đang nằm ở ngay nhà kho rồi. Tôi cảm thấy đau đớn quá, trái tim non nớt bị tổn thương quá nặng nề. Tôi cứ ngồi khóc nức nở, nước mắt ướt đầm cả áo. Lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy thế nào là nỗi đau mất mát khi người thân yêu của mình ra đi. Mãi sau bố mẹ mới dỗ tôi nín được.

Chiến tranh thật tàn khốc. Chú Chung và các cô chú khác khi mất có người thân nào bên cạnh đâu. Bố mẹ tôi thương chú Chung quá nên làm một mâm cơm để cúng cho Chú. Đại diện đơn vị là một chú có quân hàm thượng úy có về Làng để làm các thủ tục cho liệt sỹ Chung và ghé dự bữaa cơm cúng chú rồi ra đi.
Tháng 8 năm 1972 tôi lên đường nhập ngũ. Từ đó tôi không còn được thắp hương cho chú nữa vì ở xa, chiến tranh lại căng thẳng và phần vì mộ chú (ở khu vực vườn phụ lão) lại bị bom ném bay mất nấm. Năm 1987 khi về quê, tôi và em trai là Khương có đi tìm lại mộ Chú một lần mà không thấy.
Mùa hè năm 2000, Nhà nước có chủ trương quy tập, tìm kiếm hài cốt liệt sỹ. Mẹ tôi báo lên Huyện đội và Xã đội về trường hợp chú Chung hy sinh và đề nghị cho tìm hài cốt bị thất lạc của Chú. Gần suốt một ngày đội quy tập đào xới tung cả khoảnh vườn mà không tìm thấy tung tích hài cốt đâu cả. Nhiều người nhìn mẹ tôi ái ngại vì sợ tuổi già nhầm lẫn chăng. Nhưng mẹ tôi tin rằng chú Chung ở quanh đâu đây. Mẹ thắp hương cầu khấn chú có linh thiêng thì chỉ cho mọi người biết để đưa về quy tập ở Đài Liệt sỹ xã. Và thật may mắn khi đội quy tập đào thêm 2 m về phía đông thì gặp được ngôi mộ và hài cốt Chú. Trên tấm bia khắc vào đá chỉ còn mỗi tên họ và chữ cái đầu của tên đệm “Võ Đ”, còn phần sau đệm và tên bị bom phạt mất. Năm đó chú Chung được đưa vào Nghĩa trang Liệt sỹ xã cho đến nay.
Nhưng thật đau lòng vì đơn vị quản lý Chú ngày trước không có người về nhận và trên bia khắc chỉ còn chữ “Võ Đ”. Vì vậy trên nấm mộ của chú đang ghi là Liệt sỹ vô danh. Chỉ có mấy anh em tôi thì biết chắc chắn đó là chú Võ Đ… Chung (hay Trung) quê Hà Nam, bộ đội lái xe hy sinh tháng 7 năm 1972. Đã mấy lần tôi có liên hệ với những đơn vị bộ đội vận tải mà mùa hè năm 1972 hay chạy cung đường này nhưng vẫn chưa có kết quả.
Khi tôi ngồi viết những dòng này, lòng vẫn hy vọng qua thông tin trên, đơn vị, gia đình, bạn bè hay ai biết được Liệt sỹ Võ Đ… Chung (hay Trung) thì hãy cùng chúng tôi chung tay để trả lại tên cho Chú trên nấm mồ vẫn đang còn ghi là “Liệt sỹ vô danh”.
Nguyễn Thanh Tùng
Chú thích: (1) Mần: Làm