CHÂN DUNG NHÀ HOẠT ĐỘNG TÌNH BÁO THIẾU TÁ NGUYỄN MẬU ĐÀN

TrầnXá QuảngBình
26 Tháng 4 lúc 08:30 ·
Đã chia sẻ với Công khai
CHÀO MỪNG KỶ NIỆM 48 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2023).
Nhân kỷ niệm 48 năm Ngày Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, website langtranxa.vn xin gửi đến quý vị và các bạn chân dung nhà hoạt động tình báo qua bài viết "Quá trình hoạt động cách mạng của anh Nguyễn Mậu Đàn" của tác giả là em gái ông, bà Nguyễn Thị Lệ Vinh. Dựa trên tư liệu lưu giữ từ Bộ TTM QĐND Việt Nam, lời kể của người trong cuộc và nhân chứng, bài viết đã cho ta một cái nhìn tổng thể về quá trình hoạt động bí mật, bền bĩ, kiên cường, một lòng một dạ tuyệt đối trung thành với đảng với cách mạng mặc dù bản thân phải chịu đựng tù đày gian khổ hy sinh và gia đình phải chịu nhiều thiệt thòi, tai tiếng của Nhà tình báo Nguyễn Mậu Đàn.
Trân trọng!
BAN BIÊN TẬP

QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
CỦA ANH NGUYỄN MẬU ĐÀN

Bản gốc về quá trình hoạt đông cách mạnh của anh tôi – Nguyễn Mậu Đàn hơi dài, nên tôi - Nguyễn Thị Lệ Vinh, em gái anh xin phép tóm lược những nét cơ bản để mọi người hiểu thêm về hoạt động tình báo trong lòng địch của anh.
Anh tôi sinh năm 1927, tại thôn Trần Xá, xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trước Cách mạng tháng 8 anh học tiểu học và trung học trường Pháp ngữ Đồng Hới. Năm 1945, thôi học anh trở về quê tham gia cướp chính quyền. Anh sung vào đội dân quân tự vệ thôn, xã, kéo về huyện lỵ Quán Hàu bắt tên quan huyện rồi đi thẳng về Đồng Hới cướp chính quyền.
Từ tháng 8 năm 1946 đến tháng 2 năm 1947, anh làm cán bộ dân quân, cán bộ thanh niên thôn Trần Xá. Năm 1947 – 1948, anh gia nhập đoàn vũ trang xung phong tuyên truyền học tập tại biên giới Việt Lào và được lệnh trở về đồng bằng hoạt động bí mật xây dựng cơ sở quần chúng, tổ chức lực lượng vũ trang tại chỗ.
Tháng 5 năm 1949, anh được kết nạp vào Đảng CSVN. Năm 1950, anh được bầu vào BCH chi bộ xã, làm phó bí thư Chi bộ.
Năm 1951, huyện ủy Quảng Ninh rút về cơ quan, chỉ định chức vụ bí thư huyện đoàn thanh niên. Cuối năm 1951, tại Đại hội Đảng bộ huyện Quảng Ninh, anh được bầu vào Huyện ủy viên phụ trách tuyến huấn, sau đó được cử đi học khóa huấn luyện địch vận và lớp tuyên huấn chính trị tại Liên khu 4 và trở về phụ trách Ban địch vận.
Năm 1952 do bị ốm ho ra máu, điều kiện cơ quan Huyện ủy không có thuốc men chữa trị nên cho anh tôi nghỉ việc về quê chờ khi nào khỏe sẽ hoạt động tiếp.
Vào thời điểm đó, nhân việc mẹ chúng tôi ốm nặng, tổ chức bố trí để anh hợp pháp
đưa mẹ về bệnh viện Đồng Hới và ở lại luôn dưới đó. Đồng chí bí thư huyện ủy giao nhiệm vụ đi sâu vào hoạt động trong vùng địch, lãnh đạo tổ chức các cơ sở đơn tuyến trong hàng ngũ địch. Anh biết đây là hoạt động hết sức mạo hiểm. Anh kể, anh Hoàng Đàm đã động viên khích lệ lập trường kiên định của người đảng viên trong anh. Khi công việc mới bắt đầu không ngờ bị tên Tân phản bội (chiêu hồi) làm công an ngụy quyền phát hiện, chúng bắt giam anh tại nhà tù Đồng Hới. Tổ chức đã tìm cách đưa vợ con anh về Đồng Hới và thông qua sự giúp đỡ, bảo lãnh của cha đạo giáo xứ Tam Tòa, anh được ra khỏi tù và làm bồi bếp (vợ anh theo đạo thiên chúa đã làm vỏ bọc cho anh). Sau đó, tổ chức đưa một đồng chí đảng viên tên là Hà Thị Kiểu, quê làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh là liên lạc từ Đồng Hới lên căn cứ huyện trao cho chỉ thị cho huyện ủy, chỉ định anh phụ trách công tác binh vận, tìm cách gia nhập vào hàng ngũ lính ngụy, đi sâu vào tổ chức cơ sở ngụy ở tiểu đoàn 23 Việt Nam, Đồng Hới. Nhờ những tài liệu anh Đàn cấp, ít lâu sau, được sử chỉ đạo của tỉnh ủy, phối hợp với cơ sở địa phương, bộ đội ta đánh, tiêu diệt địch ở huyện Quảng Ninh tại Quán Hàu và đồn Võ Xá ven đường quốc lộ 1.
Năm 1954, sau khi hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, anh bị mất liên lạc với tổ chức vì địch cử đi học Trường Hạ sĩ quan tại đồn Mang Cá, Huế từ tháng 4 năm 1954.
Mãn khóa học do đỗ cao lại có Pháp ngữ nên anh được chọn đi học tiếp khóa ngành quân nhu và khóa kế toán Pháp (Sau này vào năm 1959 anh lại được đơn vị ngụy cử đi học lớp kế toán Mỹ tại Sài Gòn cho phù hợp cho quân đội do cố vấn Mỹ hướng dẫn).
Năm 1957 ra trường được điều động về Sở Quân Nhu Quân Đoàn 1 làm kế toán lương cho sĩ quan binh sĩ quân đội ở Sở Hành chánh và tài chánh số 2 thuộc Quân đoàn 1 ở Đà Nẵng. Nhờ vậy mà anh báo cáo chính xác quân số của địch về cơ sở cách mạng
Trong thời gian này anh đã bắt liên lạc được với ông Trần Hoàng là cơ sở cục tình báo 2 Trung ương (Đoàn 52), anh Vân, tức là Sơn là quân báo khu 5, anh Hai Hiệp cán bộ thành ủy Đà Nẵng và xin chỉ thị cấp trên. Cũng thời gian này anh được đồng chí Tòng, quân của Cục 2 hướng dẫn về máy chụp ảnh siêu nhỏ, và xử lý hóa chất. Phòng làm việc bí mật của Cục 2 ngay ở nhà anh. Anh đã báo cáo các tài liệu mật có giá trị chính xác của địch về Trung ương cục. Do trực tiếp cấp quân nhu cho chúng nên trước khi bọn giặc đàn áp, đánh trận nào, ở đâu anh biết trước. Nhờ vậy quân ta đánh thắng những trận lớn ở quân khu 5. Sau này, anh ra làm việc ở cục Trung ương, các tài liệu đó vẫn còn.
Năm 1962, đồng chí Tòng bị bắt, mất liên lạc (theo nguyên tắc của Trung ương cục, mỗi khi mất liên lạc, vẫn giữ nguyên vị trí, không được liên lạc với cơ sở khác). Năm 1963 -1965, Trung ương cục cử đồng chí Thông (tức là Lê Quang Vỹ) nối lại liên lạc và chỉ thị anh giữ nguyên vị trí cũ để nhận lệnh công tác mới. Sau đó đồng chí Khưu Văn Đức vào thay đồng chí Thông chuyển công tác. Thời gian này, anh tiếp tục cung cấp nhiều tài liệu có giá trị chuẩn xác.
Tháng 7 năm 1965, cơ sở bị vỡ (do có kẻ phản bội), anh bị địch bắt. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh vùng I chiến thuật giữ chức vụ Chánh tòa án, đưa anh ra toà án binh mặt trận kết tội phản nghịch và tuyên án “tử hình”, ra lệnh sáng mai 07h30’ đưa ra bắn ở pháp trường sân vận động Đà Nẵng. Anh nói, anh chuẩn bị tư tưởng kiên định của người Đảng viên, sẵn sàng chết, chứ nhất quyết không khai để bảo toàn cơ sở, đường dây tình báo cục. Nhưng rồi cố vấn Mỹ thuộc tình báo CIA phát hiện anh Đàn là điệp viên của tình báo Bắc Việt cài vào hoạt động trong quân đội ngụy với phương châm "Đi sâu và leo cao" trong lòng địch của Đảng Cộng sản Bắc Việt nên ra lệnh không được hành quyết mà đưa anh Đàn vào trung tâm tình báo tại số 3 đường Bạch Đằng Quận 1 Sài Gòn để khai thác. Chúng đưa anh đi hết thảy các nhà tù miền Nam, tra tấn cực kỳ dã man nhưng cũng không khai thác được gì. Cuối cùng chúng đưa anh vào trại tù binh Tam Hiệp Biên Hòa. Anh vẫn giữ khí tiết người cách mạng, luôn tâm niệm câu nói của đồng chí Hoàng Văn Thụ: “Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”.
Không khai thác được gì, nhưng tháng 6 năm 1972, chúng vẫn đưa anh ra xử tại tòa án quân sự Sài Gòn. Do vợ anh thuê các luật sư giỏi bào chữa, cùng với sự giúp đỡ của cha đạo, biện bạch rằng hồ sơ không có chứng cứ nào là Việt Cộng nằm vùng. Còn bản thân anh chối bỏ tất cả tội trạng. Kết quả, chúng chuyển từ tội “phản nghịch” thành tội “quấy rối trị an” và tuyên án 4 năm tù treo nhưng vừa thả về được một tháng thì chúng bắt lại rồi đưa về trại tù binh Tam Hiệp Biên Hòa. Cho đến tháng 6 năm 1972 nhờ sự lo lót chạy chọt của cơ sở bí mật của ta anh mới được thả ra. Tổ chức cơ sở Cục đã chờ sẵn, ngay lập tức đưa anh và gia đình lên Đà Lạt, không thì chúng bắt lại.
Lên Đà Lạt, anh liên lạc với đồng chí Sáu Đen là điệp viên của Cục tình báo để tiếp tục hoat động. Vợ anh cũng được anh Sáu Đen giao nhiêm vụ tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cán bộ hoạt động ở các bưng biền và ngay cho cả anh Sáu Đen.
Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, anh được điều ra Hà Nội công tác ở đơn vị 1752 thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1980 anh nghỉ hưu về quê hương sống với anh em sau bao ngày xa cách. Anh gặp lại anh Hoàng Đàm, chú Tích, chú Ngật, chú Khiêu, anh Phan Kỉn, chú Nguyễn Đức Sung…Anh em gặp nhau hàn huyên, tâm sự cuộc đời hoạt động cách mạng. Tôi cứ nhớ mãi, hồi đó các trường học ở địa phương mời anh đến nói chuyện, nói về cuộc chiến đấu của người tình báo, về những chiến công của bản thân và đồng đội anh.
Và tôi cũng nhớ lại những tháng ngày đau khổ, chịu đựng, tủi nhục của gia đình anh em chúng tôi khi bị những cặp mắt khinh bỉ, những điều thị phi về anh tôi: “kẻ phản quốc”…
Thế mới biết một chiến sĩ điệp viên, tình báo đã phải hy sinh nhiều nhường nào.
Thời gian cuối cuộc đời, anh thường đau ốm luôn do di chứng của những trận tra tấn dã man trước đó nên quay về sống Đà Lạt. Tuy sức khỏe giảm sút nhưng anh vẫn tiếp tục hoạt động, làm bí thư chi bộ ở phường 4, Đà Lạt và luôn được mọi người nể trọng.
Tháng 6 năm 1986, các vết thương lại tái phát, các bác sĩ ở Quân y viện 175 đã hết lòng cứu chữa, nhưng anh không qua khỏi.
Với 59 tuổi đời, 37 năm tuổi Đảng anh tôi đã ra đi thanh thản sau khi đã cống hiến trọn đời cho quê hương, đất nước. Cuộc đời của một Thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam, một nhà tình báo xuất sắc đã khép lại nhưng hình ảnh của anh vẫn sống mãi trong người thân, bạn bè, đồng chí, quân đội và nhân dân Việt Nam.
Lễ tang anh được Chi cục tình báo Sài gòn tổ chức hết sức trang trọng với rất đông từ các đồng chí lãnh đạo Cục tình báo, đơn vị 1752 đến bạn bè, đồng chí, bà con, người thân đến phúng viếng đưa tiễn anh về với Tổ tiên.
Anh Nguyễn Mậu Đàn ơi! Tuy anh đã mất nhưng anh mãi mãi là niềm tự hào của đồng đội, gia đình, dòng họ, bà con quê hương ta. Cầu cho linh hồn anh nơi suối vàng siêu thoát.
Huế, ngày 29 tháng 12 năm 2022
       Nguyễn Thị Lệ Vinh
1
2\3 4 5678
910
11