Cũng nơi miền quê tươi đẹp đó về mùa hè lại mang một hình ảnh khó quên. Bắt đầu từ tháng 6 khi gió Lào thổi về là lúc làng quê và cả cánh đồng khô hạn. Càng về cuối hạ khi tần suất nắng và gió Lào tăng thì hạn hán càng nghiêm trọng thêm. Cả một vùng bán đảo Duy Hàm khô khốc, đồng khô cỏ cháy, nứt nẻ. Cả làng chỉ còn trông vào Hồ nước ngọt đầu thôn để ăn uống, còn tắm rửa, giặt giũ phải ra sông dùng nước nhiễm mặn.
Dù nắng hạn gay gắt nhưng để đảm bảo cuộc sống mưu sinh, sau khi thu hoạch xong vụ mùa tháng 5, bà con nông dân phải tranh thủ cày bửa ruộng trước khi khô nước. Sau đó vào hè từ tháng 6 là cả làng phải đi đập đất cho tơi nhỏ. Hình ảnh từng hàng từng hàng người dàn hàng ngang dùng vồ để đập vỡ những luống đất cày rắn, to trong cái nắng như thiêu như đốt và gió Lào thổi bụi bay mù trời không bao giờ quên trong tôi. Tiếp theo là dùng trâu bừa qua và gieo sạ hạt thóc xuống ruộng theo kinh nghiệm để chờ có mưa là cây lúa được trồi lên phát triển và cho thu hoạch vụ mười.
Chính vì ruộng đồng khô cháy cây cỏ không mọc được nên để đảm bảo thức ăn cho trâu cày, bừa ruộng, lứa tuổi cỡ chúng tôi ai mà không biết thành thạo dùng liềm cắt cỏ cho trâu ăn. Những địa điểm hồi đó có tiềm năng nhiều cỏ cho trâu chúng tôi đều thuộc lòng như đầm Hàm Hòa, Cồn Hà, Sác Cầu Vòng, Chợ Gộ và cả Rào Trù, Rào Đá, Bổn Cồn Hoàng, Chợ Chè … Hàng đêm từ 4 giờ sáng chúng tôi đã lên đò chèo mãi miết đến những điểm xa đó cắt cỏ rồi để chiều về cân cho hợp tác xã lấy công điểm ăn chia mùa vụ. Có lần đi qua Phà Long Đại chúng tôi gặp máy bay Mỹ bay qua và ném bom. May mà những quả bom nổ trên cạn chứ không phải xuống Bến Phà nên chúng tôi vẫn bình an trở về.
Tuy vất vả là vậy nhưng do phụ thuộc vào thiên nhiên nên vụ mười thường đạt năng suất lúa không cao, thậm chí mất trắng nếu gặp năm gieo sạ mà trời không mưa. Cá biệt cũng có vụ mùa bội thu khi năm đó gặp thời tiết thuận lợi.
Là vùng quê trù phú của “Nhất Đồng Nai, nhì Hai huyện” nhưng thời đó do làm ăn hợp tác xã “Cha chung không ai khóc” nên dù vụ mùa tháng năm có khá hơn mà nạn thiếu lương thực vẫn triền miên, cái đói luôn hiện hữu trong mỗi gia đình. Để cứu đói, cả làng phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi lo từng bữa ăn khi giáp hạt. Những ông bố bà mẹ và cả người già, trẻ em phải chèo thuyền theo sông Long Đại lên vùng dân tộc để mua từng gánh sắn hay từng đoàn người phải gồng gánh vào tận Lệ Thủy thậm chí Quảng Trị mới mua được khoai sắn về sát lát phơi khô để độn với cơm cầm cự qua ngày.
Cùng sống và chứng kiến cuộc sống vất vả của người dân vùng quê Võ Duy Hàm nên ông Hoàng Đàm, một người con ưu tú của làng Trần Xá khi giữ chức vụ Bí thư huyện ủy huyện Quảng Ninh đã nung nấu và cho tiến hành một dự án vĩ đại “thay trời làm mưa”: Đào Kênh Duy Hàm. Đây là một dự án có tầm vóc đại thủy nông của huyện và tỉnh. Dự án gồm đào đắp một kênh dọc có chiều rộng 30 mết chiều dài 5.000 mét có độ sâu 10 mét và một kênh ngang chiều rộng 20 mét, chiều dài 3.000 mét có độ sâu 8 mét. Mục tiêu của dự án là cung cấp đủ nước ngọt cho đồng ruộng hai xã Hàm Ninh, Duy Ninh và một phần xã Võ Ninh. Khi triển khai cả một công trường đồ sộ hiện ra kéo dài hàng km.
Để làm được khối lượng đào đắp khổng lồ của dự án mà chỉ thực hiện bằng thủ công vì thời ấy chưa có máy móc, huyện đã huy động tất cả nguồn lực của mình, từ các đội thủy lợi, dân công các xã đến các cơ quan, các trường học kể cả học sinh cấp III. Có thời điểm trên công trường kéo dài hàng km đặc kín người đào đắp theo dây chuyền từ dưới kênh lên tận đập. Với sự chỉ đạo sát sao, kiên quyết của lãnh đạo huyện và sự nỗ lực của toàn huyện, sau 4 năm thi công, công trình Kênh Duy Hàm của dự án đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng trong niềm vui vỡ òa của người dân ba xã Võ Duy Hàm. Tuy nhiên do khi làm dự án lớn này việc khảo sát kỹ thuật thiếu chu đáo dẫn đến nguồn nước cung cấp cho trạm bơm vào kênh (Hói Trúc Ly) không đủ và địa chất vùng đất khi đào sâu quá 7 mét bị nhiễm mặn do trước đây đáy kênh nguyên là biển bồi. Sau mấy năm thử nghiệm không thành công dự án đành ngừng lại cho đến tận bây giờ. Ước nguyện và tâm huyết của một người con nặng lòng với quê hương đành bỏ dỡ.
Sau khi dừng thực hiện, dự án còn gây thêm hạn hán nặng hơn cho đồng ruộng trong mùa hè do nước bị rút về kênh sâu. Vì vậy đồng ruộng càng bị khô hạn hơn và không có thể làm được lúa vại vụ mười như trước đây. Tình cảnh vùng quê lại rơi vào nan giải khó khăn.
Nhằm chấm dứt tình tình trạng hạn hán của người dân hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình, được sự quan tâm của Chính phủ , Bộ Thủy lợi và các ban ngành trung ương địa phương, ngày 16 tháng 12 năm 2005, Dự án thủy lợi Hồ Rào Đá được khởi công. Công trình hồ chứa có dung tích thiết kế trên 82 triệu mét khối; tổng mức đầu tư hơn 347 tỷ đồng bao gồm các hạng mục: Đập đất dài 700 mét, chiều cao 33 mét; 3 đập phụ tổng chiều dài 469 mét; tràn xả lũ đóng mở bằng van cung, tiêu năng bằng mũi phun; hệ thống kênh chính, kênh cấp 1, 2, 3 và rất nhiều hạng mục phụ trợ khác... chia làm 14 gói thầu. Công trình do Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng thủy lợi 5, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ đầu tư. Bằng nỗ lực và sự quyết tâm “đội nắng, thắng mưa” vượt qua hơn sáu mùa lũ tràn, ngày 25 tháng 5 năm 2011, công trình chính thức hoàn thành và được Bộ Nông nghiệp và PTNT bàn giao cho tỉnh Quảng Bình sử dụng.
Hồ Rào Đá đưa vào khai thác đã đảm cung cấp nguồn nước tưới cho 6.000 ha lúa hai vụ huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy; bảo đảm nước sinh hoạt cho trên 4 vạn dân các xã vùng nam huyện Quảng Ninh: Tân Ninh, Vạn Ninh, Xuân Ninh, Hiền Ninh, An Ninh và Khu công nghiệp Áng Sơn. Bên cạnh đó Hồ Thủy lợi Rào Đá còn điều tiết giảm nhẹ lũ cho khu vực hạ du, kết hợp nuôi trồng thủy sản, cải thiện môi trường và phát triển du lịch cho du khách trong tương lai khi đến với vùng đất sơn thủy hữu tình: núi Thần Đinh, chiến khu Rào Trù, bến phà Long Đại...
Công trình thủy lợi Hồ Rào Đá là bước đột phá làm thay da đổi thịt đồng ruộng hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy mà đặc biệt là vùng bán đảo Duy ninh, Hàm ninh. Dự án không chỉ cung cấp nước sinh hoạt cho trên 4 vạn dân các xã vùng nam huyện Quảng Ninh như mục tiêu ban đầu mà hiện các xã Hàm Ninh, Duy Ninh, Võ Ninh cũng đã được hưởng niềm hạnh phúc to lớn khi nước sạch Nhà máy nước Rào Đá đã về tận từng hộ gia đình.
Trên trái đất này nước ngọt là một trong những thành tố tạo nên sự sống. Nước cùng ta làm ăn, nước cùng ta lên rừng xuống biển, nước sưởi ấm lòng ta vào mùa đông lạnh giá, nước làm sạch và tạo nên cảm nhận mát mẻ vào mùa hè… Điều đó là kì diệu và không chối cãi. Nhưng với vùng bán đảo bao quanh sông nước mặn quê mình vào mùa hè, nước ngọt Rào Đá còn là thứ tài nguyên vô giá, là vàng, là kim cương mà dự án đã trao cho mỗi người dân quê ta đang hiển hiện hôm nay. Nhờ nước Rào Đá mà quê ta đã thâm canh hai vụ lúa chắc ăn trong một năm và sâu xa hơn nữa là cải thiện toàn bộ mạch nước ngầm sinh hoạt để làng mạc xanh tươi, cây cối sum suê đâm hoa kết trái. Đặc biệt là đồng ruộng luôn xanh tốt, luôn được mùa với hàng ngàn hộ gia đình có được sự bền vững về an ninh lương thực.
Cảm ơn Đảng, Chính phủ, cảm ơn những người con ưu tú khắp mọi miền tổ quốc nói chung và những người con yêu của quê hương Quảng Bình nói riêng đã sáng tạo, triển khai và đưa công trình Hồ Rào Đá vào hoạt động. Sự có mặt của nguồn nước ngọt trên quê hương hôm nay đã làm biến đổi cả một vùng quê nghèo khó thành một vùng quê tươi đẹp, mát mẻ và trù phú.
Ước nguyện muôn đời của ông cha nay đã biến thành hiện thực.
20/4/2023
Nguyễn Thanh Dòng

