Sinh ra và lớn lên trên miền đất quê hương Quảng Bình anh dũng kiên cường có truyền chống giặc ngoại xâm vẻ vang, anh Nguyễn Văn Đán cũng như bao nhiêu người con của làng Trần Xá, một nắng hai sương, chịu thương, chịu khó,
ngày đêm bám trụ nơi mảnh đất thân yêu của mình, “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”1. Nhưng khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, anh sẵn sàng lên đường đi chiến đấu.
Qua những năm tháng được rèn luyện trong quân ngũ, anh đã trưởng thành trong khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt.
Là xạ thủ số một, thuộc Khẩu đội 9, Trung đội 3, Đại đội 5, Tiểu đoàn pháo cao xạ 2-9 Quảng Bình, một trong những đơn vị kiên cường, bất khuất trong những năm chống cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đơn vị anh đảm nhận trách nhiệm bảo vệ phòng không thuộc khu vực Tỉnh uỷ, nơi trung tâm đầu não chỉ huy của Tỉnh nhà.
Sau thất bại trận “Điện Biên Phủ” trên không tại Hà Nội, giặc Mỹ điên cuồng tập trung đánh phá ác liệt ở nhiều trọng điểm của tỉnh Quảng Bình, nơi đựơc mệnh danh là miền “Đất lửa” trong những năm tháng chiến tranh này.
Từng tham gia nhiều trận đánh nhưng anh Nguyễn Văn Đán không bao giờ quên được trận quyết chiến ngày mồng 8 tháng 1 năm 1973 giữa đơn vị pháo cao xạ của anh với máy bay Mỹ. Sau đây là lời kể của anh:
“Hôm ấy, khoảng 8 giờ sáng, ba tốp máy bay đầu tiên của Mỹ từ Hạm đội 7, bay thẳng vào trận địa pháo phòng không của Tiểu đoàn pháo cao xạ 2-9. Máy bay địch vòng lượn, gào rít rồi lao xuống trút những đợt bom xối xả vào trận địa pháo của ta. Những tiếng bom nổ long trời, lở đất nhưng vẫn không át nổi tiếng hô của người chỉ huy đơn vị pháo anh hùng: “Noi gương anh hùng Nguyễn Viết Xuân, hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Các khẩu đội pháo như cùng chung một nhịp đập, đồng loạt nổ súng bủa vây quân thù. Nhiều chiếc máy bay địch bị thương và bốc cháy trên bầu trời quê hương. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, đã hơn một giờ chiều mà các xạ thủ chưa được một miếng cơm, ngụm nước vào bụng bởi từ sáng đến giờ chưa khi nào ngớt tiếng máy bay Mỹ. Được sự động viên của Chính trị viên Tiểu đoàn và Đại đội, tinh thần chiến đấu của các xạ thủ không hề nao núng mặc dù trận địa pháo của ta đã có nhiều thương vong.
Cay cú vì bị thua đau, máy bay Mỹ tập trung lực lượng quyết tiêu diệt trận địa pháo bằng một chiến thuật mới: “Chiến thuật bủa vây”. Khi nghe tiếng gào rú của máy bay Mỹ, các xạ thủ ngước mắt nhìn lên bầu trời, thấy nhiều tốp máy bay bay thành bốn vòng để bao vây trận địa. Vòng ngoài, chúng thả một lớp bom bi nổ chậm dày đặc để ngăn chặn sự tiếp tế lương thực, súng, đạn của ta. Vòng thứ hai, chúng bắn rốc két liên tục nhằm uy hiếp tinh thần chiến đấu của các xạ thủ. Vòng vây lửa thứ ba là những thảm bom sát thương, nhằm truy kích các xạ thủ trên trận địa pháo. Vòng vây thứ tư, chúng dội xuống những quả bom điều khiển bằng tia laze cực chính xác, nhằm hủy diệt những trận địa pháo kiên cường.
Trong vòng vây lửa của bom đạn máy bay Mỹ, trận địa Tiểu đoàn pháo 2-9 khói, đất bay mù mịt. Cả trận địa pháo tưởng chừng như bị xáo tung lên từng mảnh. Đến lúc này trận địa Đại đội 5 bị trúng bom, Đại đội phó Nguyễn Thành Trung bị thương, sau đó Đại đội trưởng Phạm Hồng Diên bị trúng đạn, pháo thủ Trương Thanh Nghệ hy sinh, nhiều pháo thủ bị thương vong…. Nhưng người chỉ huy mới lại đứng lên tiếp tục chỉ huy trận đánh…. Cho đến bốn giờ chiều, tiếng máy bay địch thưa dần rồi tắt hẳn, để lại một khoảng không im ắng, vắng lặng.
Trong trận đánh này, ta đã bắn rơi một máy bay và bắn bị thương nhiều chiếc khác, tuy nhiên cũng có tổn thất. Ngoài thương vong của Tiểu đoàn pháo 2-9 Quảng Bình, còn có một số pháo thủ của Trung đoàn pháo 233 Thủ đô vào chi viện, mãi mãi nằm xuống trên mảnh đất này. Sự hy sinh của các anh đã góp phần vào chiến thắng của đất nước và gieo mầm sự hồi sinh cuộc sống trên quê hương Quảng Bình đất lửa”.
Trong trận chiến đấu đó, anh Nguyễn Văn Đán cũng bị thương nặng và được đồng đội đưa về tuyến sau điều trị. Vốn đầy tâm huyết và ý chí kiên cường của người lính nên tuy đơn vị cho phục viên về chính sách, anh vẫn trăn trở và sẵn sàng lên đường chiến đấu vì quê hương nếu đất nước chưa bình yên.
Cảm ơn các anh! cảm ơn những người con dũng cảm, chiến đấu quên mình để bảo vệ non sông. Máu của các anh đã đổ trên chiến trận, để mãi tô thắm cho màu xanh và sự sống sinh sôi nảy nở trên quê hương. Để cho ngày hôm nay đất nước thanh bình, làng Trần Xá chuyển mình vươn lên, lòng người dân thuận hoà trên dưới, chắp cánh cho đời, bay cao, bay xa.
(1) Trích thơ “Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc” của Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu