ĐI CỦI

Ngày trước, quê tôi nghèo lắm. Cả làng làm ăn hợp tác xã, công chỉ mấy lạng thóc, thiên tai gây mất mùa thường xuyên. Vùng tử địa mà!
       Bà con vượt qua được là nhờ đi củi. Người người đi củi, nhà nhà đi củi.
Đò dọc, đò ngang xuôi ngược ngất ngưỡng là củi. Củi chất đầy hai bên bến đò, củi chất dọc theo các bến ven sông. Một ngày ba, bốn chuyến chở củi về Đồng Hới bán. Củi vơi, củi lại đầy. Chỉ cần dắt rạ lên mái nhà là tắt bữa. Củi nuôi sống bà con, củi giúp con em ăn học thành tài.

       Ngày lại ngày, mùa nắng cũng như mùa mưa, khi trời còn tối mịt, gió thổi lành lạnh, mấy con gà trống đã thi nhau gáy râm ran đánh thức mọi người. Nhà nhà đỏ đèn. Ngọn đèn dầu leo lét đủ sáng để tìm đồ nghề đi củi. Qua quýt nắm bắp rang hay củ khoai lang lót dạ, có người không kịp ăn hoặc không có cái ăn, bụng đói, xóc vội đòn triêng, vác rạ ra bến đò. Từ các ngã đường làng, từng tốp, từng tốp nam nữ thanh niên, người già, trẻ con đủ cả, kéo nhau ra bến. Người một lúc một đông. Cả làng rộn ràng tưởng như có hội và chào nhau, nhận ra nhau chỉ qua giọng nói.
Hầu như ai cũng muốn sang sông sớm, nhưng qua được chuyến đò đầu đâu phải dễ. Hôm nào cũng thế, sợ chen lấn, nhấn chìm đò, bác lái đò phải dong đò ngoài xa, bà con ai muốn sang trước phải lội ra mới leo lên được. Mọi người lóp ngóp, tay cầm đòn triêng, tay cầm rạ lội ra, nước ngập đến đùi mới lên được đò. Thậm chí, có người còn bị rạ rạch vào chân rách cả miếng thịt, máu chảy đầm đìa. Nhưng vì mưu sinh, họ vẫn không ngại. Cứ thế, từng chuyến đò đưa bà con sang sông. Làng chỉ còn con nít với cụ già.
       Từng hàng dọc nối đuôi nhau lần bước. Cái lạnh buổi sáng ở rừng, bộ quần áo mong manh không đủ ấm, ai nấy co ro cố chịu. Hết đường bộ, dốc cao đến lội khe. Đôi chân trần tê buốt cứ lần mò, dò dẫm; đường trơn trượt bị té ngã là chuyện thường. Đoàn người vừa đi, vừa chuyện trò to, nhỏ, xen lẫn tiếng cười, tiếng gió rừng xào xạc trong màn sương sớm.
Đôộng chặt củi đã trước mặt nhưng trời vẫn chưa sáng. Mọi người lại tụm năm, tụm ba tiếp tục chuyện trò đủ thứ chuyện trên đời. Nhóm thì thầm, nhóm cười nói ha hả, vang cả núi rừng. Vãn chuyện, trời cũng tảng sáng, tất cả như đồng thanh: Xuất trận! thế là mọi người tỏa ra tứ phía.
       Như cả một công trường lớn đang thi công, tiếng chặt, tiếng cây đổ, tiếng gọi nhau râm ran, náo động.
       Khoảng hơn ba mươi phút sau, trời hửng sáng, các âm thanh cũng lắng dần. Mọi người gom củi lại để chẻ, để bó. Việc gom củi về chỗ bó cũng không kém phần nan giải. Tay kẹp bó củi, tay vịn cành, leo dốc, chui bụi rậm; gai cào rách xơ cả áo, cả tay, cả mặt, tóe cả máu; tóc bị vít cả nùi, mồ hôi nhễ nhại. Có khi leo đến gần tới nơi, trượt chân, tuột cả bó củi xuống khe, dỡ khóc, dỡ cười lại lần mò về gom lại, vác lên. Chưa hết, ôm củi đến nơi lại phát hiện ra chặt nhầm (“cha cuốc” mà tưởng “rẻ”), có đứa còn chặt cả “cha ré”, bị ăn phù cả mặt. Eo ôi, mà thiệt lạ, chỉ cần ở đôộng này kêu lên “cha ré đây” là người ở đôộng kia cảm thấy ngứa ngáy rồi. Đúng là cười ra nước mắt.
       Núi rừng giờ đã im hẳn, chỉ còn nghe tiếng gió thổi, tiếng kĩu kịt, tiếng bước chân thình thịch. Đoàn người từ các ngã lại vội vã lội suối, vượt dốc, ai nấy mồ hôi thấm đẫm nhưng vẫn chào nhau với những nụ cười tươi rói.
       Mặt trời đã lên cao độ vài con sào, mọi người lại ùn ùn kéo nhau về bến. Đặt gánh củi xuống thở phào nhẹ nhõm, lấy vạt áo lau mồ hôi, câu chuyện lại tiếp tục nở rộ như ngô rang. Tiếng cười lại vang lên xua tan hết mệt nhọc. Từng tốp, từng tốp còn tranh thủ lội đi tìm bần chín để ăn mong làm dịu đi cơn đói cồn cào.

       Ngày nay, bến đò còn đó nhưng rất ít người đi củi. Làng không còn người đứt bữa, Trần Xá đã bước sang trang mới với Cổng làng uy nghi, Đình làng cổ kính, người dân ấm no không thua chị, kém em. Nhưng trong câu chuyện của người dân quê tôi mỗi khi gặp nhau không bao giờ quên nhắc đến một thời đi củi.
       Còn tôi, mỗi lần ra bến sông, tôi như vẫn thấy rõ mồn một bóng từng đoàn người với gánh củi trên vai, lần theo mép nước về nhà, có cha, có mẹ, có anh, chị và có cả tôi nữa!

Tháng 7/2015
Nguyễn Văn Thuận