Một câu chuyện ngắn chân thật và xúc động của tác giả Nguyễn Văn Thuận viết về những kỷ niệm tuổi thơ, sống và lớn lên trên mảnh đất quê hương, về chiến tranh và số phận của con người.
Trân trọng kính mời bạn đọc thưởng thức.
Dạo ấy, cứ vào tháng 5, thu hoạch lúa mùa xong, ruộng lại chờ khô, cày ải cho vụ vại (hè thu). Muôn sự nhờ Trời. Năm thuận được mùa, mỗi sào cũng chỉ 1-1.5 tạ. Chuyện mất mùa như cơm bữa, bà con phải mây củi sống qua ngày. Lũ trẻ chăn trâu chúng tôi lại có dịp chơi đùa.
Đêm qua, một trận mưa rào khá to. Sáng ra trời quang mây tạnh, mát mẻ lạ thường. Trâu làng đã lùa cả ra đồng, bọn giữ trâu như mọi ngày, tụ lại bày trò. Một đứa đề xuất: “Đêm qua mưa, chắc đa chín nhiều, bọn mình về cây đa dưới chợ trèo ăn cho đã đi!”. Như đánh trúng tâm lý, tất cả đồng thanh: “ Đi thôi!”. Thế là cả bọn kéo nhau chạy.
Ngày đó ven sông có nhiều bãi đất hoang và nhiều cây đa lắm. Từ bến ông Lục (bố anh Trung) lên bến nhà thờ (nay bến mệ Lép) có một bãi đất khá rộng (khoảng 5 sào). Phía nam bến ông Lục, có 2 cây đa (chết một, còn một). Pháp đến đóng đồn, dân làng nhóm chợ dưới gốc đa này. (Chợ hiện tại là trường cấp 1 của xã. Về sau, trường dời về Hữu Phan, làng mới dời chợ về đó).
Cả bọn đến nơi, hớt ha hớt hải nhìn lên cây đa. Đứa nào đứa nấy tròn xoe mắt, đa sai lúc lỉu, quả láng bóng, chín đỏ cả cây. Không thể cầm nổi lòng, thoáng cái, đứa dưới, đứa trên leo thoăn thoắt như một bầy khỉ. Leo hết phần gốc cao khoảng 4 mét, cả bọn tỏa ra các cành. Mấy đứa nhanh chân đã bò ra chiếm hết các cành to. Tôi là đứa chậm nhất, chỉ còn lại một cành mọc xiên bổ về phía đông, dài hơn 2 mét, ngoài cùng là những chùm nhỏ tua tủa, quả sai quýt. Hiểm nỗi, cành trọc lóc, không một nhánh nào để vịn. Bọn ở trên đã hái được quả, vừa ăn vừa cười. Còn tôi đang mãi loay hoay. Cơn thèm đã nổi lên, không cho phép chọn lựa, tôi ôm cành bò từng tý từng tí như sâu đo; bò, bò … rồi cũng ra đến nơi. Thở phào nhẹ nhõm, tôi vịn cành đứng dậy, hái vội mấy quả cho vào mồm. Ngon! Ngọt! Thích quá, tôi quên đi cả sự nguy hiểm…
Cành trên, cành dưới, chúng kháo chuyện huyên thuyên: “Đứng trên ni ngó xuống đã quá”, “Chừ có cặp trâu mô bạng chắc mà coi thì sướng lắm hè”, … Rồi cả bọn phá lên cười ha hả…
Bỗng, rắc! Rắc! Ào! Ào! Một bóng đen lao vút từ trên cành cao nhất xuống. Độp! Độp! …Độp! Bóng đen chần vào mảng rễ dưới gốc, dội ra nằm sóng soài trên rãnh cát hẹp, xung quanh là một bãi đá lởm chởm. Có tiếng kêu thất thanh: “Thằng An bổ rồi”. Tiếng đứa khác: “Rút dây quần cho nó, mau lên, vào kêu ôông Lục đi”. Mấy đứa hét to: “Ôông Lục ơi, thằng An bổ rôi ..ô ô ồi”!
Cả bọn nháo nhác lên. Không ai bảo ai, tất cả hớt hải tụt xuống. Chân tay tôi run lên, ôm cành muốn bò nhanh vào mà không được. Bò tới mà cứ tưởng giật lùi. Mồ hôi vã ra, luống ca, luống cuống. Lấy hết sức, cố bình tĩnh, nhích dần, nhích dần, cuối cùng tôi cũng xuống được mặt đất. Mặt đứa nào đứa nấy tái xanh. Cả bọn xúm lại, ông Lục đã bế thốc An lên, mặt An đầy máu, chân tay buông lõng xuống. Mấy đứa nhìn nhau, không nói, không rằng: “ Chắc thằng An không qua nổi rồi”.
Lúc sau, đò bốn chèo vỗi vã đưa An về viện Đồng Hới. Chúng tôi ngơ ngác nhìn theo, không ai nói một lời, mặt buồn rười rượi. Một cảm giác nghèn nghẹn, đăng đắng trong cổ họng của tôi.
Hơn một tháng sau, An về. Đầu đầy sẹo, vẫn vô tư đi chăn trâu như mọi bữa. Và rồi, năm tháng trôi qua, quê nghèo Trần Xá ôm ấp, vỗ về, nuôi lớn chúng tôi.
Đất nước chiến tranh. Mỗi đứa một phương. Nhiều đứa vào bộ đội, trong đó có An và tôi. Không nói thành lời nhưng cả bọn thầm hẹn ước sẽ gặp lại nhau ở cây đa vào ngày gần nhất.
…
Đất nước thống nhất. Trần Xá lại yên bình nhưng cây đa - điểm hẹn của chúng tôi không còn nữa. Bạn bè đứa còn, đứa mất. An đã không về.
…
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thằng bé chăn trâu tóc đỏ hoe ngày nào giờ đã bước sang tuổi 70 với mái đầu bạc trắng. Lũ cháu đứa lên ba, lên mười, có đứa đã hai mươi. Nhìn chúng tíu tít chơi đùa, tuổi thơ tôi lại ùa về nguyên vẹn, một tuổi thơ dữ dội với bao chuyện vui, buồn, cay đắng và đầy nước mắt.
Tôi ngờ ngợ, hình như bóng mấy đứa bạn vừa chạy vụt qua./.
Nguyễn Văn Thuận