KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN

KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN 
 BẠN CÓ BIẾT?
Trong ngày 30/04/1975 lịch sử có bao nhiêu người “Làng Trần” cùng với quân và dân cả nước đi tới cái đích cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tiến
vào giải phòng Sài Gòn thống nhất Tổ Quốc?
Theo nguồn tin đáng tin cậy gửi Ban Biên tập thì được biết có ít nhất 03 người:
1. Anh Nguyễn Đức Hợi (con ông Nguyễn Đức Uyên)
2. Anh Võ Ngọc Bình (con ông Võ Đụng).
2. Anh Nguyễn Bá Hùng (con ông Nguyễn Tích).
Anh Hợi là bộ đội thuộc Quân đoàn 2 và anh Bình là bộ đội thuộc trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 Tây Nguyên.
Còn anh Hùng là phóng viên-nhóm trường một nhóm quay phim cùa Tổng cục Chính trị được cử vào Quân đoàn 3 tham gia chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, rồi tiếp đến là chiến dịch giải phóng Sài Gòn tháng 4/1975. Sáng 29/04 cả hai người đều có mặt tại một cánh rừng ở phía Tây thuộc tỉnh Tây Ninh trong đội hình thọc sâu của binh đoàn Tây Nguyên đánh thẳng vào Bộ Tổng tham mưu Ngụy đóng ở sân bay Tân Sơn Nhất theo nhiệm vụ đã được Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh phân công. Hơn 10h30" sáng ngày 30/04/1975, Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 3 Tây Nguyên (trong đó có 2 người của “Làng Trần”) đã đánh chiếm hoàn toàn mục tiêu trên và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, sớm hơn gần 1 giờ đồng hồ so với cánh quân của Quân đoàn 2 được phân công đánh vào Dinh Độc Lập.
            Bài viết “Kỷ niệm không quên” sau đây của anh Nguyễn Bá Hùng nguyên là phóng viên đã từng đăng trên báo Quân đội nhân dân số ra ngày 16/08/1990 là một phần sự thật của lịch sử đáng ghi nhận ấy.
Nhân dịp kỷ niệm 41 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc (30/4/1975 – 30/4/2016) Ban Biên tập trang Website của Làng Trần Xá xin trân trọng giới thiệu lại bài viết này như thêm một lần tri ân đối với tất cả cán bộ, chiến sĩ thuộc Binh đoàn thọc sâu Tây Nguyên và các binh đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam (trong đó có 3 người con của “Làng Trần”) đã có vinh dự và đóng góp to lớn cùng với quân dân cả nước vào sự nghiệp giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
                                                                                                BAN BIÊN TẬP

 

 

KỶ NIỆM KHÔNG QUÊN

Nguyễn Bá Hùng

            Do tính chất của công việc, trong chiến dịch Hồ Chí Minh tôi và anh Phạm Huyên - Người quay phim chính của cánh quân phía Tây Bắc - đã được Chính ủy Xuân cho ngồi trên chiếc xe chỉ huy của anh.

            Cùng đi trên xe còn có một cô gái vóc dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt tròn, nước da trắng tên là Hồng Vân. Cô là lính biệt động thành Sài Gòn được cử ra để dẫn đường cho các binh đoàn thọc sâu đánh thẳng vào sào huyệt của chính quyền ngụy. Cô gái rất ít nói. Nhìn bên ngoài toát lên một vẻ đẹp thùy mị, hiền lành nhưng cặp mắt thì rất tinh anh.

Sáng 29/4/1975 khi mặt trời vừa ló rạng tại một cánh rừng ở phía Tây tỉnh Tây Ninh, cả binh đoàn gồm các lực lượng xe tăng, xe bọc thép, bộ binh, đặc công, pháp binh, pháo cao xạ, công binh, đoàn xe vận tải, các đơn vị dự bị, hậu cần... đã rùng rùng chuyển động giống như một con rồng cuồn cuộn trực chỉ cuốn về Sài Gòn. Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều hát vang bài hát “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù. Tiến về Sài Gòn giải phóng thành đô”…Thật là một không khí hào hùng chưa từng có, một cuộc xuất quân cũng oai hùng chưa từng có. Giống như hào khí Đông A của đời Trần đang tu hội về đây làm dậy cả núi rừng, cả một đoàn quân dài hàng cây số, chúng tôi đi tưởng như đang bay trên gió, ao ào như thác lũ…

            Song, đi được một quảng đường đã khá dài mà chúng tôi vẫn chưa gặp bất cứ bóng dáng kẻ thù nào. Chỉ lảng vảng về phía xa vài ba chiếc máy bay ngụy bay tít ở trên cao…Có lúc chúng đến hơn gần, nghiêng nghiêng, ngó ngó…nhưng rồi cũng lướt đi, không hề có động thái gì. Tuy nhiên xin đừng ai nghĩ rằng cuộc đánh chiếm vào Sài Gòn, giải phóng sào huyệt cuối cùng của chính quyền ngụy là dễ dàng như đi chơi mát bởi khi sắp chạm chân vào ngã ba Đông Dù thuộc huyện Củ Chi - cửa ngõ phía tây của thành phố Sài Gòn là lập tức cánh quân Tây Bắc đã chạm ngay vào lửa.

            Chỉ huy Sư đoàn 25 Ngụy chốt chặn ở vùng đất này là chuẩn tướng Lý Tòng Bà vừa được tổng thống Thiệu thăng cấp từ đại tá lên chuẩn tướng cách thời điểm đó không xa. Tên này tỏ ra rất ngoan cố và hiếu chiến. Mặc dù biết Thiệu đã bàn giao chính quyền lại cho Hương và cuỗm một số tài sản lớn kếch xù gồm nhiều vàng, bạc châu báu cao chạy xa bay ra nước ngoài…nhưng hắn vẫn một lòng phụng sự cái chính thể đã mục ruỗng đến tận gốc để mong ngày được vinh danh. Hắn hung hăng tuyên bố “tử thủ” và thúc quân ra đánh chặn quyết liệt. Hỏa lực Ngụy đã phong tỏa hết toàn bộ khu vực ngã ba làm cho quân ta không thể nào tiến lên được. Bộ binh cũng bắt đầu tổn thất nhiều. Một thời khắc ngắn cả đoàn quân như khựng lại…Hỏa lực địch vẫn khống chế dữ dội, đạn các loại bay vèo vèo như mưa…Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã xông lên tiếp cận được hàng rào kẽm gai nhưng rồi lại ngã khuỵu xuống…Tôi bỗng thấy một vị chỉ huy người nhỏ thó nhưng rắn chắc, dáng nhanh nhẹn nhảy lên đứng trên nóc chiếc xe bọc thép đang dừng lại. Bóng ông cao lồng lộng trên nền trời đầy mây vào buổi sáng. Mặt ông đỏ lừ, tay ông chém vào khoảng không, miệng ông hét vào máy: “Các anh phải nhanh chóng đưa hỏa lực lên đập nát đầu thằng ngụy ra, triển khai bộ binh thành hai gọng kìm hai bên xiết chặt vào cổ chúng và lập tức xóa sổ Sư đoàn 25 không được chậm trễ…Nghe rõ chưa? Các anh có muốn kéo nhau ra tòa án binh không?”...Nghe nói ông tên là Phụng – Sư phó sư 10 thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên, người Hà Tĩnh đang trực tiếp chỉ huy chiến dịch này. Ông là một vị chỉ huy tài ba, đánh đâu thắng đó nhưng người nóng như lửa. Khi vào trận mắt ông luôn “đỏ đòng đọc” như mắt cá chày nên bộ đội còn gọi ông bằng biệt danh là “Phụng cá chày”.

            Lần đầu tiên tôi được mục kích một vị chỉ huy cấp sư đoàn bằng xương bằng thịt ở giữa chiến trường. Thật là tuyệt! Rất dũng cảm và oai hùng. Cả người tôi gần như rung lên, mắt dán chặt vào ông. Suốt hàng giờ đồng hồ giao tranh quyết liệt, súng, đạn các loại nổ ầm ầm, chát chúa, ông vẫn đứng hiên ngang trên nóc xe bọc thép truyền lệnh chỉ huy đến từng tiểu đoàn, đại đội tiến vào trung tâm Sở chỉ huy Sư đoàn 25 ngụy. Cho đến khi nghe được thuộc cấp báo về là đã bắt sống được chuẩn tướng Lý Tòng Bá ông mới nở một nụ cười hiếm hoi và chịu xuống ngồi vào ca bin xe bọc thép. Mất chỉ huy như rắn đã mất đầu, quân ngụy chạy toán loạn ở khắp mọi nơi, ông lại ra lệnh cho binh đoàn thọc sâu tiến về Sài Gòn.

            Rạng sáng ngày 30/4/1975 cánh quân của chúng tôi đã tiếp cận được khu vực Hóc Môn, Bà Điểm. Nhưng đến đây thì toàn bộ đội hình buộc phải dừng lại vì bị hỏa lực từ quân trường Quang Trung khống chế và vấp phải hệ thống ụ chắn ngang dích dắc trên đường bằng đất và bao cát địch dựng lên dài hàng cây số. Nhiều lần cả đặc công và bộ binh ta đã xông lên dùng bộc phá đánh mới hất được một số ụ. Sau đó để tranh thủ được thời gian, ta phải dùng đến xe tăng chúc nòng bắn thẳng mới nhanh chóng san bằng thêm. Phá được đoạn nào thì bộ binh lại ào ào xông lên chiếm giữ để tiếp tục đẩy lùi quân ngụy. 

            Câu thơ của Nguyễn Đình Thi thời chống Pháp bổng hiển hiện trước mặt “ Súng nổ rung trời, giận dữ/Người lên như nước vỡ bờ”…Đúng là hết lớp bộ binh này đến lớp bộ binh khác liên tiếp tràn lên trên một đoạn đường rất ngắn. Ta và địch giằng co nhau từng ụ đất. Đạn pháo cối cấp nập nổ rền làm cho địch không thể ngốc đầu lên nổi. Bộ binh ta vẫn liên tiếp xông lên, người trước ngã, người sau sau tiếp tục. Nhiều chổ thân thể của bộ đội ta chồng lên xác địch, máu tràn lênh láng ra giữa đường, bụi đất, nhà cửa, cột điện đổ ụp xuống vùi lấp và cháy khét lẹt. Thoạt nhìn không thể phân biệt được đâu là các chiến sĩ của ta đã hy sinh và đâu là lính ngụy?...Người ta bảo “đạn tránh người” nhưng điều này chỉ đúng với ai đã vào trận mà còn đi ra được…còn những người nằm lại thì hoàn toàn không!...

            Song điều quan trọng là cuối cùng cụm cứ điểm này cũng bị quân ta dập tắt và lính trong quân trường Quang Trung đang thi nhau chạy túa ra như vịt. Lần đầu tiên tôi được chứng kiên từng đám quân ngụy đông đến hàng trăm tên trần trùng trục, chạy táo tác trên đường quốc lộ. Chúng vừa chạy vừa cởi bỏ quân phục, áo quần, giầy dép, mũ, súng, đạn vứt ngổn ngang, la liệt không biết cơ man nào mà kể…Chúng xô đẩy, la hét, xéo lên nhau mà chạy. Khi vừa trông thấy xe tăng ta trên đường chúng hoảng hốt nhào ngay xuống ruộng rồi cứ thế cắm đầu chạy bán sống bán chết…Nhưng một lúc sau không thấy có tiếng súng xe tăng hay bộ binh nào bắn ra, chúng liền ngập ngừng dừng lại. Dần dà từng tốp lội ngược trở về leo lên đường quốc lộ và cứ thế, từng đoàn trần như nhộng nối đuôi nhau dọc hai bên đường vừa chạy ngược chiều với đoàn xe ta hành quân vừa vẫy cả hai tay, mũ, áo reo hò chào mừng bộ đội giải phóng…Bất giác một ý nghĩa vui lóe lên trong đầu tôi: Có phải đây là một trong những điều kỳ lạ nhất của cuộc chiến tranh này?...Và câu trả lời là: Cũng có thể, nó vẫn còn đang nằm ở phía trước!...

                                                                                                                   … Dù thế nào thì tôi vẫn thấy rất tự hào vì những gì đang xảy ra trong cái ngày lịch sử trọng đại này của cả dân tộc. Và cũng chính lý do này mà khi đang ngồi trên chiếc xe “Jép” của chính ủy Xuân tôi vẫn có cảm giác như đang đi trên mây, toàn thân ngập tràn những cảm xúc đến nỗi tóc ở sau gáy gần như lúc nào cũng dựng ngược, tâm hồn thì ngây ngất, phơi phới…Chẳng mấy chốc mà Ngã tư Bảy Hiền đã hiện ra trước mặt. Tại đây, lại một khúc tráng ca khác bất ngờ ập đến.

Ngay giữa hai làn đạn chúng tôi thấy từng đoàn phụ nữ mặc áo quần đen, cổ quàng khăn rằn, tay cầm cờ giải phóng từ các ngả đường ào ra chào đón bộ đội. Thôi thì đủ các thứ bánh kẹo, trái cây, bia, rượi, nước ngọt và có cả những gói cơm còn nóng hổi tới tấp ném lên xe và người chúng tôi. Tôi có cảm giác như xe của chúng tôi đang đi giữa trận mưa của các loại thức ăn, nước uống…Và bao trùm lên tất cả là tấm lòng của những người mẹ, người chị và những người em gái miền Nam nổi tiếng là trung hậu, bất khuất, yêu nước nồng nàn mà bây giờ tôi mới được xáp mặt. Khỏi phải nói đến sự mừng vui, rồi những nụ cười và những giọt nước mắt. Tôi xin cam đoan rằng ở trong trường hợp này, ngôn ngữ là bất lực. Chỉ có điện ảnh mới có khả năng lột tả được một phần cái không khí hào hùng và thắm đượm tình cảm cách mạng rất đỗi bình thường mà vô cùng lớn lao ấy. Chiếc máy nhỏ trong tay anh Phạm Huyên đã phát huy hết tác dụng mà chúng tôi vẫn cảm thấy như còn quá chậm trễ và sức ôm thì hết sức ít ỏi…Cứ mỗi lần phải dừng lại để lên dây cót cái máy quay 16 ly là bàn tay anh lại run lên. Mà không run sao được khi trước mắt tôi những bà mẹ già gầy gò tóc bạc cứ lao ra giữa đường chặn đứng xe tăng lại rồi leo lên tháp pháo lôi tuồn tuột những chú lính từ đầu đến chân còn phủ đầy bụi đất xuống ôm vào lòng vuốt ve, sờ nắn và khóc nức nở. Sau các bà má là tầng lớp thanh, thiếu niên và sinh viên Sài Gòn. Họ như những cơn lốc từ đâu ập đến. họ đi bộ, đi xe với đủ các loại phương tiện kéo nhau thành từng đoàn dài vô tận. Băng, cờ và biểu ngữ rợp trời. Họ đánh trống, thổi kèn, hô khẩu hiệu và hát vang những bài ca cách mạng. Họ đi đến đâu thì làm rung chuyển cả thành phố đến đấy. Tôi có cảm giác họ như những đợt sống ào ạt đang cuộn chảy trên dòng sông cách mạng vào cái buổi sáng ấy. Thật khó khăn lắm chúng tôi mới vượt qua được đoạn đường này để tiếp tục vươn tới mục tiêu đã định.

Theo sự hướng dẫn của Hồng Vân - cô gái đi cùng với chúng tôi trên chiếc xe “Jep” của chính ủy Xuân, binh đoàn thọc sâu liền rẽ ngoặt sang trái bon bon trên đường Võ Tánh, tiếp đến là Võ Duy Nguy.

Khi còn cách Lăng Cha Cả vài km, bổng phia trước súng đạn nổ ầm ầm. Có cả tiếng súng đại bác bắn rất căng, đinh tai, nhức ốc, nghe không phải pháo xe tăng của ta. Sau đó là một cuộc đọ súng to, súng nhỏ giữa hai bên. Bộ binh được lệnh xuống xe triển khai tiêu diệt địch. Hỏa lực địch các cỡ trên các nhà cao tầng hai bên đường thi nhau nhả đạn. Chiếc xe của chính ủy Xuân vừa lao lên bị ngay một quả M79 nổ trước mặt cách non chục mét. Chiếc xe “Jep” bất ngờ lạng đi. Tôi ngồi dạng chân ôm Huyên trong lòng trên mui xe phía trước tấm kính chắn suýt bị văng cả hai người lẫn máy quay xuống mặt đường nhựa…May mà nhanh như cắt, Hồng Vân ngồi ở ghế trên đã toài nửa người ra ngoài xe giơ tay đỡ. Cô giữa chặt lấy người tôi và quát khẽ, giọng rất nghiêm: Bám chắc vào cọc ăng ten và ngồi im. Liền sau đó cô giương khẩu súng “Côn” nổ hai phát vào lan can phía trên căn nhà mé phải đường. Xe chúng tôi lao vút qua, tôi vẫn kịp nhận ra một tiếng kêu thất thanh từ phía ấy và một bóng người gần như đổ ụp vào sau cánh cửa. Thật là hú vía…Tiến thêm một đoạn nữa, súng, đạn vẫn nổ rền vang. Chúng tôi được lệnh dừng lại né vào một ngôi nhà ngay mặt đường. Vừa mới vào nhà ngồi chưa ấm chỗ đã nghe tiếng to, tiếng nhỏ ở phía trong vọng ra. Anh Xuân hỏi:

- Cái gì trong ấy thế? 

Mấy chiến sĩ bảo vệ trả lời:

- Dạ! Có chị phụ nữ đau đẻ. 

Anh Xuân nói tiếp:

- Thế thì ra gọi y tá vào nhanh lên.

Chừng 10 phút sau đã nghe tiếng khóc “oe oe” từ phòng trong và mấy người mặt hớn hở chạy ra khoe với bộ đội:

- Con trai. 

Tất cả chúng tôi đều mỉm cười. Có cậu nào đó buột miệng:

- Số đỏ. 

Mọi người lại cười. Một chú lính nào đó tiếp luôn: 

- Sinh ra vào cái ngày này, bà đỡ lại là bộ đội, đúng là trời cho. Một chú lính khác lập tức đế ngay vào: 

- Phải nói đúng là “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng… Để tán dương câu nói hay, tất cả chúng tôi lại cười ồ lên một lần nữa…Tuy nhiên, khi trận cười chưa dứt thì bất thình cánh cửa tủ lớn ở giữa gian chính, nơi chúng tôi đang ngồi bật ra. Một người đàn ông mặc áo lót cầm khẩu súng “Côn” trong tay bước tới. Ai nấy đều ớ người chưa biết xử trí ra sao. Mấy chú lính bảo vệ đã lên đạn súng Ak “rốp, “rốp”.

Người đàn ông lập tức giơ hai tay lên trời và nhanh nhảu:

- Đừng bắn! Đừng bắn! 

Nói rồi anh ta tiến lại gần trước mặt anh Xuân, quỳ xuống và hai hai tay chắp lại vái như tế sao:

- Em lạy các anh! Em lạy các anh! Nãy giờ em nấp ở trong này em thấy hết rồi. Các anh tốt lắm...em lạy các anh! Em cảm ơn các anh!

Cả anh Xuân và chúng tôi đều thở phào và mỉm cười thêm một lần nữa. Sau đó, vẫn cái giọng ôn tồn, ấm áp anh Xuân nói:

- Thôi được rồi, đứng dậy và vào lo cho vợ con anh đi. Lúc này chúng tôi mới kịp lướt mắt vào phía tủ và thấy có bộ quân phục của thiếu tá hải quân ngụy đang treo ở trong đó...

Rời căn nhà của viên thiếu tá, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Nghe nói ở phía trước ngay Ngã 5 Lăng Cha Cả, đại quân của ta đã vấp phải một cụm hỏa lực chống tăng cực mạnh của địch. Ba chiếc tăng đi đầu của ta bất ngờ bị bắn cháy rụi. Khi xe của chúng tôi lên đến nơi, mùi cháy khét lẹt và khói vẫn đang bốc lên nghi ngút. Thi thể và ruột gan của bộ đội có nơi vẫn còn vắt qua thành xe...

Tạm gác lại những đớn đau cùng đồng đội, tại đây chúng tôi lập tức bị cuốn hút vào trò chơi ú tìm của những chiếc xe tăng T54 còn lại đang vấy bắt những chiếc M48 của địch vừa mới cắn trộm. Kết thúc cuộc vây bắt, mặc dù cố hết sức để chạy thoát thân nhưng 4 chiếc M48 của chúng đã bị đền tội và 2 chiếc khác bị bắt sống. 

Chừng 15 phút sau cánh cửa số 1 của sân bay Tân Sơn Nhất dẫn vào Bộ Tổng Tham Mưu ngụy đã được mở toang. Nhiều mũi tiến công của ta đang ào ạt tràn vào ngôi nhà ba tầng đồ sộ, nơi trung tâm điều hành chiến tranh của chính quyền ngụy. Tôi và Phạm Huyên bám theo một đơn vị cầm cờ tiến sâu vào hướng ngôi nhà. Hồng Vân lao lên trước dẫn đường. Súng vẫn nổ ran tứ phía. Khi chúng tôi vừa bám được khu tiền sảnh thì bất thần, Hồng Vân quay lại xô tôi và Phạm Huyên ngã giúi vào góc tường. Một loạt AR.15 nổ, Hồng Vân bị trúng đạn ngã vật sang một bên. Máu ở bụng và cánh tay trái tràn ra đỏ thẩm cả chiếc áo bà ba nâu. Mấy chiến sĩ đi theo tức điên người vừa đuổi vừa xả đạn từng tràng vào mấy tên ngụy đang chạy tháo về phía sau. Chúng tôi nhổm dậy định giúp Vân băng lại về thương. Nhưng cô gái nói như ra lệnh:

- Để mặc em! Các anh theo bộ đội lên cắm cờ ngay.

Nói xong cô giật phắt cuộn băng đeo ở thắt lưng, vừa tự băng lấy vết thương ở bụng vừa liếc mắt nhìn chúng tôi. Thấy tôi và Phạm Huyên đứng chần chừ, cô giục.

- Đi nhanh lên. Chú ý đề phòng các ngách cầu thang đó nghen!

Đến lúc này thì tôi và Phạm Huyên chỉ còn cách ngoan ngoãn làm theo lời cô. Khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 30/4, lá cờ giải phóng đã phần phật tung bay trên nóc nhà 3 tầng màu vàng gạch của Bộ Tồng Tham Mưu ngụy. Trước khoảng sân rộng, đại quân của ta đang reo hò và bắn súng chào mừng chấm dứt một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ nhất trong lịch sử dân tộc. Trong niềm vui chung ấy, chúng tôi có một niềm vui riêng là những người làm phim của Thủ đô Hà Nội có mặt đầu tiên để chứng kiến những giây phút huy hoàng này. Tuy nhiên mừng thì mừng đấy nhưng lòng dạ chúng tôi vẫn canh cánh một điều gì không yên. Khi Tôi và Phạm Huyên trở lại tìm Hồng Vân thì chiếc xe của chính ủy đã đưa cô vào bệnh viện và cũng không rõ là bệnh viện nào. Công việc của chúng tôi thì vẫn phải tiếp tục, tôi và Phạm Huyên lại bị chìm đắm trong niềm vui của những nụ cười và những giọt nước mắt. Người từ Côn Đảo về, người từ khám Chí Hòa ra gặp người từ Hà Nội vào. Biết bao hân hoan và mừng tủi...Chúng tôi đã quay không biết cơ man nào những thước phim như thế. Vậy mà Hồng Vân - chiến sĩ biệt động dũng cảm đã trở thành ân nhân của chúng tôi thì chúng tôi chưa quay được một mét phim nào về cô. Thật là một thiếu sót đáng chê trách. 

Sau chiến dịch, để mong chuộc lại những sai lầm không thể tha thứ ấy và cái chính là để cho cỏi lòng mình được bình yên, tôi và Phạm Huyên đã quyết chí đi tìm gặp Hồng Vân một lần nữa. Nhưng thật trớ trêu thay! Chúng tôi đã cất công đi tìm rất nhiều nơi giữa thành phố Sài Gòn mới giải phóng đầy náo nhiệt mà tung tích của cô gái vẫn bặt vô âm tính...

Mới đó mà đã 15 năm đã trôi qua. Trong những ngày này, Xí nghiệp phim Quân Đội tưng bừng kỷ niệm 30 năm ngày thành lập. Những người cầm bút và cầm máy đã từng gắn bó với rất nhiều cuộc chiến tranh như chúng tôi không khỏi có những lúc bồi hồi xúc động. Nỗi nhớ những người bạn, đồng bào, đồng chí đã đổ máu hy sinh để giúp chúng tôi có được những thước phim như bây giờ cứ cồn cào không nguôi. Riêng tôi những kỷ niệm về Hồng Vân lại thêm một lần nhức nhối. Đã nhiều lần tôi tự hỏi: Giá như ngày ấy không có cô gái nhỏ - Hồng Vân vừa dẫn đường thần kỳ, vừa làm công tác bảo vệ một cách xuất sắc thì điều gì đã xảy ra với chúng tôi? Và còn cả cái điều này nữa: Nếu như...nếu như không có em thì bây giờ lịch sử cũng nghèo đi rất nhiều những thước phim quý giá biết mấy. Nghĩ vậy nên tôi đã cầm bút viết. Mong sao có một sự tình cờ hoặc một vận may nào đó mà bài viết nhỏ này sẽ đến được với Hồng Vân, để cho tôi có cơ hội gặp lại một ân nhân. Ít nhất thì tôi cũng nói được một lời - Cảm ơn!

                                                                                                Nguyễn Bá Hùng