Sinh ra ở môt làng quê nghèo ở Hàm Ninh huyện Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình, bố anh vốn là người bản chất thật thà chất phác, sống hết mực giản dị và dành tình yêu thương cho con cháu không may lâm bệnh nặng qua đời cách đây đã 5 năm. Mẹ anh năm nay ngoài 80 tuổi, người gầy rọm. Từ sau Cách mạng tháng Tám-1945, bà là nữ du kích của làng Trần Xá, được giác ngộ cách mạng từ sớm, là đảng viên và cán bộ cựu trào của xã Hàm Ninh.
Ông bà sinh được sáu anh em, anh là con cả, tiếp mấy em: Nhơn - Trí -Tuệ - Nghệ - Thuật. Nay họ đã có gia đình, mấy anh chị em sống rất hòa thuận.
Vào năm 1977, anh tốt nghiệp trung cấp sư phạm Đông Hà, có quyết định về bản Chai, Ba Ngày thuộc xã Tà Long- Hướng Hóa- Quảng Trị. Tôi nghe người bạn ở cùng trường với anh kể lại: anh Văn thật là một con người khác thường, mới đến bản sống giữa lòng dân Pa Kô- Vân Kiều không biết tiếng, xin ăn, giao tiếp, mọi thứ đều phải ra dấu, thế mà chỉ sau một thời gian ngắn, anh đã biết tiếng người Bru Vân Kiều, tập tục sinh hoạt của họ, anh giao tiếp, phát âm không khác gì người dân . Xuất phát ở con người giàu tình cảm, có sức cảm hóa, anh đã chiếm được lòng tin yêu của mọi người.
Thời gian ở bản Chai- Ba Ngày được ba năm anh Hà Công Văn chuyển đến bản Li Tôn km 28 đường mòn HCM- khi chia tay anh bà con và các em học sinh, mọi người từ già làng đến các em nhỏ đều quây quần bên thầy, muốn níu chân lại không muốn anh chuyển đi nơi khác. Đó chính là những giây phút cảm động chứa chan tình người, tình thầy trò gắn bó sâu nặng.
Năm học 1985- 1986, tôi được chuyển đến trường anh, lúc đó anh là phó hiệu trưởng, trong thời gian hai năm sống với anh tôi đã lớn lên nhiều, từ cách ăn ở đến việc dạy học hàng ngày, anh luôn là người mẫu mực, luôn nhận việc khó khăn vất vả về mình, cùng làm nương, phát rẫy, tăng gia sản xuất để tăng thêm thu nhập và nuôi thêm các em học sinh từ các bản xa về ở lại trường. Có một lần tôi đang dạy trên lớp, ngày hôm đó dân bản cúng chay, tổ chức linh đình, nhìn qua cửa sổ trường học thấy một người mặc bộ quần áo cọc, trên đầu đội chiếc khăn gùi cả một A Chói đầy những gà mới nhổ lông đi xuống suối. Mấy đứa học trò ngồi gần cửa sổ trầm trồ- Ô thầy Văn- thế mà tôi cứ tưởng người dân đi làm ruột gà ở suối.
Sau một thời gian tôi nhận công tác ở một trường khác và đến tháng 9-1990, tôi có quyết định trở về quê dạy học. Hàng năm, khi hè về, tết đến hai anh em lại gặp nhau, tình cảm trong tôi dâng trào, nhớ về những kỉ niệm vui, buồn một thời sống ở bản.
Thấm thoát thời gian trôi đi, đến tháng 11-2010, tôi có người bạn là Nguyễn Văn Duệ, nguyên là giáo viên ở tuyến đường 14- Hướng Hóa- Quảng Trị, nay là trưởng Ban Tuyên giáo Thành phố Đồng Hới- Quảng Bình. Duệ hẹn tôi vào thăm lại mái trường xưa nhân kỉ niệm 20/11 và kỉ niệm 20 năm xa trường. Lúc hai anh em tôi đến thăm gia đình anh Văn trời vừa xế chiều. Vợ chồng anh vui mừng khôn xiết, niềm nở chào đón chúng tôi. Anh bảo: “mấy chú giỏi quá, mình cứ tưởng rằng bây giờ mấy chú ở đồng bằng bận công tác khó có dịp đến thăm vợ chồng mình”. Nói xong anh đưa hai chúng tôi ra xem trường. Sau hai mươi năm trở lại trường chúng tôi vô cùng sửng sốt và choáng ngợp. Tôi thật không thể tin nổi mái trường tre, nứa lụp xụp năm xưa giờ đây đã là những dãy nhà cao tầng khang trang, bề thế với một một khuôn viên sạch sẽ và ngập tràn cây xanh. Hiện nay trường được đổi tên thành Tiểu học và Trung học cơ sở xã Húc Nghì, hiệu trưởng của trường chính là anh Hà Công Văn. Thế nhưng khi anh đưa hai chúng tôi đến thăm nhà anh, tôi không tưởng nổi vợ chồng anh lại sống trong ngôi nhà sàn làm bằng tre, nứa đơn sơ chật hẹp. Giữa nhà có một bếp lửa to, phía bên góc nhà có che một tấm ri đô- là nơi giành cho vợ chồng anh ăn , ở, sinh hoạt, hai phía còn lại anh dành phơi lúa mới tuốt về còn thơm mùi lúa mới. Hôm đó gia đình mời chúng tôi cùng một số giáo viên ở lại nội trú ăn bữa cơm thân mật, ấm cúng với mùi vị quen thuộc của những con cá xeng ỏ suối nướng và hương vị đậm đà của thịt heo rừng khô khiến cho lòng tôi dâng trào những cảm xúc khó tả. Tôi như sống lại những năm tháng khó khăn, thiếu thốn nhưng tràn ngập tình cảm thân thương. Ngày hôm sau, hai chúng tôi chia tay vợ chồng anh trở lại thị trấn Khe Sanh, thăm lại bạn bè năm xưa. Vợ chồng gói cho tôi một đùm cơm nếp trộn với sắn mì, vừa dẻo vừa thơm cùng với một miếng thịt heo rừng to. Anh nói: “Vợ chồng mình không có quà cáp gì gửi cho anh em ngoài đó (đã một thời sống với nhau ở tuyến 14 đường HCM) chỉ có nắm cơm rừng này thôi”. Vâng chỉ một nắm cơm rừng bé nhỏ nhưng chất chứa bao nhiêu là tình cảm và kỉ niệm mà mãi suốt đời này tôi sẽ không thể nào quên.
Trưa hôm đó, hai chúng tôi mời bạn bè đến một nhà hàng khá sang trọng, họ dọn ra không thiếu món gì, thế mà khi tôi đưa đùm xôi trộn sắn mì và xé thịt heo rừng nướng ra thì mọi người xô đến tranh nhau ăn để tìm lại chút dư vị ngày xưa. Tôi nói: “Đó là món quà vô giá của vợ chồng anh Văn từ bản Húc Nghì gửi ra cho chúng mày đó”. Tất cả mọi người đang vui đùa hớn hở, bỗng nhiên chửng lại, sủng sốt bởi đây là món quà của người anh cả trên tuyến đường 14- ĐkaRông- Quảng Trị gửi ra.
Vì điều kiện công tác hai anh em chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Nhưng thời gian và khoảng cách cũng không làm cho tình cảm của chúng tôi phai nhạt. Vào một ngày gần đây nhất, trước ngày 20/11/2014 đứa con gái đầu lòng của anh lấy chồng, anh đến thăm gia đình tôi và mời vợ chồng tôi dự cưới cháu. Tiếc thay hôm đó chỉ có mình vợ tôi đến dự còn tôi bận công tác ở trường xa không về được. Vào dịp 20/11 anh lại về thăm quê, thăm bạn bè và đến thăm gia đình tôi và một lần nữa tôi lại không được gặp anh, bởi tôi bận ở lại trường tổ chức 20/11 có Lãnh đạo huyện và PGD lên dự, tặng quà.
Đúng vào 8h ngày 01/12/2014 lúc tôi đang chuẩn bị hành lí lên trường thì có điện thoại của một người bạn ở gần trường anh Văn. Nó nói: Anh Văn trên đường đi công tác lúc về nhà trời mưa to vào lúc chập choạng tối nên tầm nhìn bị che khuất, xe máy anh vấp phải đá bổ xuống va vào cột mốc khiến anh bị thương nặng , được đưa đến bệnh viện cấp cứu, nhưng không qua khỏi. Tôi bàng hoàng như sét đánh ngang tai, sau một vài phút trấn tĩnh tôi mới hỏi thằng bạn: “Mi nói có thật không? Tao không tin”. Nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Để khẳng định cho chắc chắn tôi điện đứa cháu ở cùng làng với anh Văn và lấy em ruột của anh. Tôi nghe nó trả lời lí nhí trong điện thoại xen lẫn tiếng kèn đám ma, nó nói: Anh Văn bị tai nạn nặng đưa vào bệnh viện Trung ương Huế cấp cứu, không qua khỏi ,sáng nay đã đưa anh về nhà rồi. Lúc này chân tay tôi bủn rủn, nghẹn ngào, hai hàng nước mắt cứ trào ra nhòa đi không thấy gì, tôi như người mất hồn và thét lên: Cuộc đời của anh 37 năm gắn bó với rừng núi, vượt qua bao suối bao đèo , bao trận cuồng phong nước lũ, với bao khó khăn nguy hiểm mà anh vẫn vượt qua, vậy mà giờ đây anh lại ra nông nỗi này. Lòng tôi rối bời, quặn đau, có biêt bao câu hỏi trong đầu nhưng không có lời giải đáp. Cuối cùng, tôi lấy điện thoại gọi cho mấy đứa bạn trước đây cùng dạy với anh. Đến viếng anh trong buổi chiều mùa đông mưa dầm rét buốt, và kéo dài từ đường cái cho đến trước cổng nhà anh là những bạn bè, đồng nghiệp, bà con xa gần, những người đã gắn bó với anh qua năm tháng. Đứng trước linh cửu anh, ảnh thờ anh, nhìn khuôn mặt dịu hiền, đôn hậu của anh chúng tôi ai cũng nghẹn ngào không nói nên lời.
Sau một hồi ngồi ở bàn tiếp khách, nhìn đoàn người ra vào để viếng anh, có đứa em con cậu ruột của anh đến bên tôi nói với tôi trong nức nở nghẹn ngào: “Chú Bình ơi, anh cháu sao lại xui xẻo thế, hai anh em cháu mới gặp nhau cách đây không lâu, anh nói: Hồng ạ! Mình có nguyện vọng một ngày nào đó, mình sẽ đi thẳng đường mòn HCM về thăm chú Bình ở Trường Sơn. Chú mày không cần làm gì hết chỉ luộc một con gà, chấm muối tiêu, uống với rượu C-3 của dân Trường Sơn là được, kẻo lâu ngày tao chưa có dịp gặp lại chú Bình”.
Bây giờ nghĩ về anh, về những ngày sống bên anh, tôi cảm thấy mình nhỏ bé và ghen tị với anh. Anh đã được Đảng và nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí, “Anh hùng Lao động trong thời kì đổi mới” , được nhiều nhà văn, nhà báo viết về anh. Ở đời thường, anh là một người sống giản dị, khi về làng mọi người gặp anh cứ tưởng anh là một giáo viên bình thường, nhưng khi chứng kiến đám tang anh từ lãnh đạo PGD huyện ĐkaRông, LĐLĐ huyện, UBND huyện, LĐLĐ tỉnh, UBND tỉnh Quảng Trị về lo cho anh từ khi mới nằm xuống đến khi đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng, bà con mới biết công lao và sự cống hiến lớn lao của anh.
Sự ra đi của anh Hà Công Văn đã để lại trong lòng mỗi người sự mất mát, đau thương quá lớn. Đối với gia đình- mất đi người chồng, người cha, người con, người anh mẫu mực. Đối với bạn bè, đồng nghiệp- mất đi người bạn chân tình, đáng kính. Đặc biệt mất đi một người thầy tận tình gần trọn cuộc đời chăm lo sự nghiệp giáo dục miền núi huyện ĐkaRông nói riêng và sự nghiệp giáo dục nước nhà nói chung…
Sự ra đi của anh Hà Công Văn để lại cho những người đang sống , nhất là những người làm công tác giáo dục có nhiều điều suy ngẫm.