NHỮNG MÙA TẾT VẮNG CHA

Những mùa tết vắng ba, tôi không còn được ba chở ra cầu Hiền Lương nhìn về quê nội nơi có ngọn núi Thần Đinh đẹp như tranh thủy mạc nữa, anh em chúng tôi không còn nghe ba tôi kể chuyện đường về làng mỗi đêm giao thừa như mọi năm ...
Chú Út của tôi ở quê làng Trần Xá vào Thành Phố Hồ Chí Minh thăm con cháu. Tôi đưa chú đi lòng vòng tham quan khắp khu phố chính ở quận 1. Chú rất thích thú và nhìn cái gì cũng lạ, miệng cứ thốt lên ôi! Thành phố hiện đại quá, xứng đáng mang tên Bác hè…
Đi chán chúng tôi vào quán nước bên đường Nguyễn Huệ, mời chú ăn kem uống cafe. Tôi gọi ly cafe đá, còn chú thích ăn kem nên tôi gọi cho chú ly kem ba màu. Khi họ đem ra chú cứ nhìn ly kem và mỉm cười, ôi! kem ăn mà cũng đẹp hè, có cả chiếc dù be bé cắm trang trí rất đẹp, từng sợi chocolate màu nâu chảy dài trên ba viên kem nhìn đẹp và hấp dẫn quá. Chú cháu đang hàn huyên tâm sự vui vẻ thì có cậu bé trạc 12 tuổi tay xách chiếc hộp gỗ đến mời tôi đánh giày.
- Đánh giày không chú ơi?
Tôi nhìn chú bé và từ tốn hỏi:
- Đánh một đôi bao nhiêu?
Cậu bé nhìn tôi như dò xét mức độ giàu sang của khách rồi nói:
- Dạ thưa ba mười ngàn một đôi chú ạ!
Tôi lặng im, thở dài rồi lấy ví tiền sau túi quần, rút ra tờ năm mươi ngàn đưa cho chú bé rồi nhỏ nhẹ nói:
- Cháu ơi! Chú biếu cháu năm mươi ngàn chứ chú không đánh giày đâu, nhưng với điều kiện…Tôi nhìn vào đôi mắt đang mở lớn của cháu bé ngạc nhiên, miệng há hốc chờ đợi tôi nói tiếp. Nhưng với điều kiện cháu phải đi ra khỏi quán này đừng cho chú thấy cháu lần nữa nhé. Được không? Nó cầm lấy tờ tiền, cúi đầu, miệng cám ơn rối rít rồi nhanh chóng cầm chiếc hộp gỗ đánh giày lao nhanh ra cửa như sợ tôi đổi ý lấy lại tiền. Tôi lặng lẽ nhìn theo cho đến khi nó đi khuất sau dãy nhà đằng xa kia.
- Con à! Sao không đánh giày mà cho tiền nó vậy? Chú tôi gọi và hỏi tôi như vậy. Tôi lặng im một hồi lâu rồi chậm rãi trả lời chú:
- Dạ chú! Con cho nó tiền để nó đi con khỏi thấy, vì đó là hình ảnh của con khi bằng tuổi nó, lúc ba con bị địch bắt con cũng phải đi đánh giày như vậy để kiếm tiền về cho mẹ. Nhìn cậu bé đánh giày đó làm con gợi nhớ thuở xa xưa mưu sinh chú à. Đau lòng lắm…
Thuở ấy trong miền Nam đàn ông là lao động chính. Phụ nữ chỉ ở nhà lo con cái, thế nên khi ba tôi bị địch bắt, kinh tế gia đình không còn nữa, mẹ thì quen việc nội trợ và chăm đàn con tám đứa nheo nhóc nên chẳng biết làm gì ra tiền, tôi là anh cả lớn nhất trong nhà lúc ấy chỉ mới mười một tuổi thôi.
Gia đình chúng tôi lúc ấy ở thành phố Đà Nẵng, hàng xóm ly khai vì nhà theo Việt Cộng, những gia đình bạn bè thân thiết chỉ dám đến ban đêm tiếp tế cho ít gạo cơm nhu yếu phẩm vì ban ngày đến sợ địch bắt, chụp mũ vào tội tiếp tế cho gia đình theo Việt Cộng. Ba tôi là người đầu tiên trong chế độ cũ bị địch phát hiện ra có tình báo của Cộng sản Bắc Việt cài vào. Thời đó báo chí giựt tít đưa tin ngay trang đầu bắt được tên: “Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản” và đòi xử án nặng tử hình để làm gương.
Lại nói về gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn sau khi ba bị địch bắt. Thế nên suy đi tính lại tôi thấy chỉ có đi đánh giày, bán báo là phù hợp với sức lực của một thằng bé như tôi. Nghĩ là làm, tôi qua nhà chú Lạc làm thợ mộc nói chú đóng cho chiếc hộp đựng dụng cụ đánh giày, chú nghe xong rưng nước mắt một hồi rồi hỏi đi đánh giày thiệt hả con, tôi im lặng gật đầu mà nước mắt cũng lưng tròng theo chú. Chú loay hoay một hồi cũng đóng xong và nói con cầm về đi chú tặng con đó. Tôi dạ cám ơn chú rồi lon ton xách chiếc hộp gỗ chạy về nhà. Vậy là sau mỗi buổi chiều đi học về cũng như những ngày thứ bảy chủ nhật tôi lại đi lang thang lên phố đánh giày cho khách và lính Mỹ…
Có những vị khách hiền lành họ cho thêm vài đồng tiền lẻ, có khách chảnh chọe họ chê bai chỗ này, chê bai chổ nọ bắt đánh lại, thậm chí có lần người khách cầm chiếc giày gõ lên đầu tôi và bảo đánh như vậy mà đòi tiền hả mày. Tôi chỉ biết nuốt nước mắt xin lỗi rồi đánh bóng lại cho họ. Riêng đánh giày cho lính Mỹ thì công bằng mà nói, họ cho tiền nhiều hơn và cho thêm tiền, đôi khi có người cho vài thẻ chocolate, hoặc vài cây kẹo cao su thơm ngon, tôi bỏ vào hộp gỗ đựng dụng cụ đánh giày mà không dám ăn chỉ để dành đem về cho các em vui.
Mùa hè tôi lại rủ đứa em kế tôi đi qua bãi biển Mỹ Khê bán những chiếc mũ đan lát rộng vành cho khách đi tắm biển, hai anh em cầm chồng mũ rao bán đến chiều thì đón phà qua sông Hàn về nhà, cứ đi riết hai đứa đen như cục than hầm…
Tuổi thơ của anh chúng tôi rách như xác bướm, những lũ trẻ hàng xóm xa lánh chúng tôi và gọi anh em chúng tôi là Việt Cộng con. Anh em chúng tôi chỉ biết im lặng sống quây quầy bên nhau mà thôi.
Chúng tôi làm đủ nghề kể cả hai giờ sáng lên đại lý lãnh báo về đi bán báo sớm…Tin nóng hổi đây, tin nóng hổi đây!!! Việt cộng tấn công làm chìm tàu chiến của Mỹ ở sông Hàn đây. Cầu Dallas bị Việt Cộng gựt mìn sập đêm qua, hoặc một tiểu đoàn Trâu điên của Thủy Quân lục chiến bị Việt Cộng đánh bại tan tác ở thành cổ Quảng trị… Báo đây! Báo mới đây bà con ơi! Hai anh em kêu gào các tin tức nổi trội để bán báo mà lòng reo vui với những chiến công của các chú bộ đội Bác Hồ…Cứ như thế anh em chúng tôi cũng làm ra những đồng tiền cùng mẹ và anh em sống qua ngày chờ ba tôi trở về. Mẹ cũng dè xẻn tiết kiệm để mỗi tháng mua quà thăm nuôi ba tôi trên lao xá nữa. Mẹ chỉ ẳm được con bé út theo lên thăm nuôi ba tôi thôi, vì họ chỉ cho phép như vậy, tình hình sức khỏe của ba chúng tôi chỉ nghe theo lời mẹ kể. Ôi! Ba mi vẫn khỏe đó, ba khoe là tháng ni tăng cân đó nghe, dù không gặp được ba nhưng nghe mẹ nói như vậy anh em chúng tôi cũng reo vui.
Trong ý nghĩ non nớt của anh em chúng tôi cứ tưởng ba bị bắt vài tháng, hoặc lâu lắm một năm sẽ về, ai dè ba đi biền biệt suốt mười năm. Những tháng năm dài đằng đẳng như vậy anh em chúng tôi cũng lèo lái lớn lên, cũng ăn học như những đứa trẻ khác, vì ba luôn dặn mẹ về nói các con hãy cố gắng học để sau này phục vụ cách mạng, vì làm cách mạng cũng cần phải học giỏi nghe các con. Những lời dặn dò tưởng như chỉ động viên của ba tôi thế mà đúng thật. Bây giờ đúng là phải học giỏi mới làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh. Nước Việt Nam đang vươn lên như chú rồng vàng bay cao trên trời xanh nhiều mây trắng đẹp mà oai hùng.
Ba tôi, một người cộng sản trung kiên, quyết một lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Tin sẽ có ngày chiến thắng vinh quang. Ngay cả lúc đang ở trong tù mà vẫn giữ vững niềm tin như thế đó thật đáng khâm phục biết bao nhiêu.
Những mùa tết vắng ba cứ đều đặn trở về, anh em chúng tôi không có áo quần mới, cũng chẳng có giày dép đẹp như thuở ba còn ở nhà. Nhớ những mùa tết khi còn có ba. Ba chở anh em chúng tôi đi chợ Cồn sắm tết, đứa đòi đôi giày này áo quần nọ, nhưng ba tôi chỉ mua quần áo như nhau, giày dép như nhau, đồng phục như nhau, kể cả mái tóc anh em tôi đều cắt ngắn ca rê như nhau. Ai nhìn vào cũng biết con ông Đàn. Chỉnh chu như một đơn vị bộ đội vậy đó.
Những mùa tết vắng ba, tôi không còn được ba chở ra cầu Hiền Lương nhìn về quê nội nơi có ngọn núi Thần Đinh đẹp như tranh thủy mạc nữa, anh em chúng tôi không còn nghe ba tôi kể chuyện đường về làng mỗi đêm giao thừa như mọi năm. Ba thường kể về quê nội với giọng trầm ấm đều đều mà thiết tha, thương nhớ mong chờ. Ba dùng cái cành cây vẽ xuống mặt đất như vị sĩ quan vẽ xa đồ chiến đấu trước khi ra trận. Đây là ngả ba làng Võ Xá, đi vào con đường trục này khoảng năm cây số là đến làng Trần Xá hiền hòa nằm bên ngả ba sông Nhật Lệ, Kiến Giang và Long Đại, nào là làng Trúc Ly, nào là làng Hàm Hòa..v.v.. Trên đường về làng có mả mụ Kích ven đường nữa nghe các con, rồi ba lại kể về làng Trung Quán quê mẹ có bụi tre một, có giếng Sen mà vào mùa hạn bà con làng Trần Xá mình cũng lên gánh nước về dùng đó các con. Ôi! bao nhiêu năm ba tôi cứ kể riết, lập đi lập lại làm chúng tôi thuộc hết những ngỏ ngách của làng, sau này ba đi tù tôi lại tiếp tục thay ba kể về quê nội cho các em tôi nghe vào dịp mỗi đêm giao thừa, lại bắt chước ba cầm cây que vẽ xuống đất để cho các em hiểu rõ đường về làng. Anh em chúng tôi lớn lên đều thuộc lòng con đường về làng và đau đáu với giấc mơ hồi hương trở về nơi quê cha đất tổ.
Sau này khi đã thống nhất đất nước, lần lượt anh em chúng tôi trở về thăm làng Trần Xá, và ngày trở về quê nhìn những phong cảnh quê làng bỗng gần gủi, giống như những gì ba tôi đã kể về làng suốt những năm xưa, chúng tôi cảm nhận thân quen như từng đã được lớn lên từ làng vậy đó.
Đang đều đều giọng kể cho chú út nghe thì chú khóc, khóc lớn không ngại đang ở trong quán của người ta. Chú đứng dậy đi về phía tôi ngồi rồi ôm lấy tôi khóc nức nở, tôi cũng khóc theo… Hai chú cháu khóc như chưa từng được khóc. Những vị khách ngồi trong quán vẫn im lặng tôn trọng những xúc cảm của hai chú cháu. Chị chủ quán cầm chiếc dĩa có hai chiếc khăn lạnh ra nói hai chú cháu dùng đi chúng tôi tặng đó. Tôi cám ơn đưa khăn cho chú tôi lau mặt và dìu chú về chiếc ghế chú ngồi. Hai chú cháu bỗng lặng im không nói lời nào, mỗi người đeo đuổi theo những nghĩ suy riêng của mình. Tôi lại nhớ về tuổi thơ đau buồn như thước phim chiếu chậm lướt qua đầu.
Thành phố Hồ Chí Minh đã lên đèn, nhưng hai chú cháu tôi vẫn lặng im ngồi như thế, nhìn mông lung ra phía bờ sông Sài Gòn như thể không muốn trở về nhà nữa…
Đà Lạt những ngày cuối năm 2018
Nguyễn Mậu Trường