Cách đây khoảng 20 năm, khi con trai đầu lòng của tôi khoảng sáu, bảy tuổi là đứa rất gần gũi với ông nội. Cứ mỗi lần nghe nó bi bô đọc bài thơ Hồ nước của ông sáng tác là tôi liên tưởng đến sự tích hồ nước đầu làng mình. Bài thơ rất dài nên có đoạn nó quên lại được ông nhắc cho rồi dần cũng thuộc. Tôi còn nhớ như in cảnh khi hai ông cháu ngồi với nhau là ba tôi lại bảo: Xều đọc bài thơ Hồ nước cho ông nghe đi là nó lại đọc. Giọng đọc của một đứa trẻ khi đó diễn đạt nghe rất dễ thương. Qua bao năm, ba tôi nay cũng đến tuổi gần đất, xa trời. Nhiều lần tôi muốn ghi lại bài thơ đó nhưng vì ba tôi không còn nói đươc. Có lần hỏi lại con trai thì nó bảo bài này dài lắm, đã lâu rồi nên con không nhớ hết. Hôm nay, vào ngủ với ba, tôi cố lục mà may mắn tìm thấy cuốn sổ có bài thơ nên ghi lại.
Xin gửi đến quý vị và bạn đọc cùng thưởng thức bài thơ của ông Nguyên Đức Mến viết về một di sản đặc biệt của làng mà thế hệ cha anh và chúng ta một thời gắn bó và không thể nào quên.
Nguyễn Đức Nhật
Hồ nước của làng ta
Đáy hồ bằng đất sét
Thành cũng đắp đất sét
Không bê tông, cốt thép
Mặc nắng trời cay nghiệt
Vẫn giữ nước thần kỳ
Tôi hỏi bà:
"Tổ tiên đã làm gì
Xây hồ kiên cố thế""
Bà trầm ngâm suy nghĩ
Rồi chậm rãi trả lời:
"Bà gần trăm tuổi rồi
Cũng chỉ nghe kể lại
Vào mùa thu Đinh Hợi
Tính hơn ba trăm năm
Dân làng sống khổ cực
Hè về nóng như đốt
Đất nứt nẻ hoắm sâu
Cóc kêu trời thảm thiết
Cuộc sống càng cay nghiệt
Cây cối như quắt khô
Người người khát cháy cổ
Nước ngọt thiếu trầm luân
Giếng đào biết bao lần
Vẫn lại chua, lại mặn
Trâu, bò như chết nắng
Miệng há hốc chờ mưa
Cầu Bụt hiền cho nước
Nhiều người giàu tâm huyết
Đứng đầu nhiều họ, nhà
Trăn trở nghĩ gần xa
Mong có nguồn nước ngọt
Đất sét mình rất tốt
Mịn, dẻo làm gạch xây
Khắp nơi đều biết tiếng
Nhiều lần đến thăm viếng
Thợ lò làm gạch nung
Sau một trận mưa tuôn
Nước giữ lâu dưới hố
Đất không bị tơi, vỡ
Vẫn thấy dẽo, thấy dai
Một thoáng nghĩ đây rồi
Phải xây hồ lấy nước
Người đứng đầu dòng tộc
Mười Cụ áo xắn tay
Cùng con, cháu làm ngay
Một hồ nhỏ thử nghiệm
Niềm vui đến bất tận
Kết quả đến không ngờ
Nước vẫn giữ trong hồ
Kéo dài hơn tuần lễ
Niềm vui thật khôn kể
Ta quyết tâm xây hồ
Để giữ lấy nước mưa
Cho dân mình đỡ khổ
Nghe được nguồn tin đó
Cả làng đồng tình ngay
Kế hoạch đã giàn dựng
Kỹ thuật đã thông qua
Già, trẻ làng Tràn ta
Đều nhất tề ủng hộ
Ngày khởi công rầm rộ
Giống trống lại phất cờ
Xen lẫn tiếng reo hò
Y như vui ngày hội
Ngày qua ngày tắm gội
Tháng bảy nắng chang chang
Già trẻ vẫn sương nắng
Nhào đất như làm gạch
Nhanh nhẹn chuyển đến hồ
Người đốc công dặn dò
Kiểm tra từng ụ đất
Thành hồ xây dính chặt
Sắc trắng, nâu mịn màng
Tiếng reo hò giòn vang
Khắp công trình thế kỷ
Xây hồ không phải dễ
Khó khăn đến nhiều bề
Nhân lực thiếu thiếu ghê
Toàn ông già, phụ nữ
Chiến tranh hai dòng họ (1)
Vắt đến kiệt sức dân
Nạn đói cứ hoành hành
Áo không đủ che thân
Làn da nâu sám cháy
Chồng thì bị bắt lính
Vợ trẻ cũng bắt phu
Vốn bản chất cần cù
Ngày ngày qua gắng gượng
Sức hơi cũng kiệt dần
Đoàn thợ lò ở gần
Nhiều lần đến giúp sức
Trời ngày càng nóng nực
Thành hồ cứ cao dần
Khiến mọi người hăng thêm
Xua tan nỗi mệt nhọc
Công trường vẫn vui tươi
Tiếng nói lẫn tiếng cười
Đón chờ ngày kết quả
Ba tuần trăng vất vã
Hồ nước đã xây xong
Rộng mấy nghìn thước vuông
Bờ cao hơn ba mét
Chân hồ chừng mười bước
Bao nhiêu năm mơ ước
Hiện thực đã đến rồi
Rộn ràng tiếng cười vui
Cứ vang, vang, vang mãi".
Chuyện của bà kể lại
Mai vẫn là huyền thoại
Một công trình vĩ đại
Đẹp một vườn hoa tươi
Tỏa ngát hương cho đời
Ngào ngạt hồng, cúc, nhài
Sực nức thơm, thơm mãi
Cháu con được ăn trái
Lấy nước sáng, chiều, trưa
Thấp thoáng bóng người xưa
Cười đôn hậu, hiền từ
Hiện lên trên sóng nước
02/9/2003
Nguyễn Đức Mến
(1) Chiến tranh Trịnh – Nguyễn