NHỚ NGƯỜI CHIẾN SỸ NĂM XƯA

                           Nguyễn Mậu Trường
                           (Ghi chép theo lời kể của anh Nguyễn Đình Thi làng Trần Xá)

BÀI VIẾT VỀ NHỮNG NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA LÀNG - NGƯỜI CHIẾN SỸ THƯƠNG BINH NGUYỄN VĂN VĨNH
Anh Thi đặt tách trà xuống bàn rồi mỉm cười nói với tôi: Em nhớ ra rồi anh à. Hồi những năm 1979 đến 1983 khi em đang dạy học ở miền núi Hướng Hóa, Bình Trị Thiên nay thuộc tỉnh Quảng Trị, ba em thường mua rựa ở quê mình lên đó bán cho người dân tộc Vân Kiều để họ phát rẫy làm nương. Tuy vất vả nhưng vì kinh tế gia đình mà ông phải bươn chải mưu sinh như vậy nên em rất thương ba em.
Tôi nhắp ngụm trà rồi ôn tồn hỏi anh Thi: Anh nhớ năm 1976 về thăm quê lần đầu có mua một cây rựa đem vào Nam biếu ba vợ anh. Ông mang đi rừng, chẻ mây, tre khen rựa sắc bén quá trời. Anh nhớ mang máng cái lò rèn ấy nằm sau lưng nhà anh Kỳ anh con bác Khanh của anh phải không em.
Anh Thi sốt sắng: Ôi!!! Anh cũng nhớ cái lò rèn ông Rê đó hè… Anh Thi đằng hắng lấy giọng rồi kể cho tôi nghe: Ngày xưa có bốn anh em từ huyện Lệ Thủy về làng Trần Xá mình lập nghiệp mở lò rèn, đó là các ông Lê Ngộ ba của ông Minh ở sau nhà ông Đơ, đã mất lâu rồi. Ông Lê Đẳng ba anh Nguyên, Tòng, Tần, ông này không làm thợ rèn, ông Lê Xuân ở gần nhà ông Đệ, ông Rê ở sau nhà chị Thanh Kỳ. Ba ông này làm thợ rèn rất giỏi. Hiện giờ chỉ ông Lê Xuân còn sống.
Ngày nay ở làng Trần Xá nghề rèn cũng dần dần mai một, kể từ khi làng mình có nghề cơ khí hàn xì...v.v… xuất hiện cũng khoảng mười năm nay anh à. Thật công bằng mà nói, người dân làng mình thuở ấy cũng nhờ ba ông thợ rèn đó mà ngày xưa cung cấp cho bà con mình đủ các loại cày, cuốc, dao, rựa và liềm gặt lúa trong công việc nhà nông đó anh. Hiện nay chỉ có anh Lê Trung con ông Rê nối nghiệp, ở gần sau chổ đất ba của anh trước đây nhưng thỉnh thoảng làm một số dụng cụ thôi.
Tôi đặt tách trà xuống bàn rồi nhỏ nhẹ hỏi: Thi này, khi nãy em có nhắc đến ba em mua rựa lên bán cho đồng bào dân tộc trên Hướng Hóa, theo anh ngày trước có lẽ ông thuộc lớp đàn anh của ba anh. Với truyền thuống quật cường yêu nước thấm nhuần bao đời nay của người Trần Xá, anh nghĩ có lẽ ba em ngày xưa cũng như các trai làng thuở ấy đều tham gia cách mạng, lên chiến khu phải không? Em vui lòng kể cho anh nghe nhé!
Anh Thi cười hiền hòa: Thật ra ba em cũng như bao lớp trai tráng làng thuở ấy, lớn lên trong sự đô hộ của giặc Pháp. Nghe mấy ông bà cao tuổi trong làng kể lại hồi đó quân Pháp mỗi lần đi càn quét từ các làng Hữu Niên, Trung Quán càn về làng Trần Xá mình rất hung tợn, chúng cướp phá ruộng nương, phụ nữ, con gái thoát thân không kịp, bị chúng bắt hãm hiếp bầy đàn vô cùng man rợ, nhất là bọn lính Lê Dương đen nhẻm thì càng tàn bạo hơn với dân làng. Bao nhiêu hầm bí mật bị chúng phát hiện có Việt Minh đều bị chúng xả súng xuống hoặc ném lựu đạn làm hy sinh không biết bao nhiêu chiến sĩ Việt Minh…
Ngày xưa các làng ở Xã Hàm Ninh rất nghèo khổ, phần đông người dân là thành phần bần cố nông, đất đai canh tác đều nằm trong tay các tay địa chủ cường hào ác bá, dân làng chỉ đi làm thuê cuốc mướn cho họ mà cũng không đủ ăn. Ba em cũng sinh ra trong một gia đình bần cố nông như thế, được ông bà em đặt tên là Nguyễn Văn Vĩnh, đó là năm 1925. Lớn lên ông cũng đi giữ trâu thuê cho địa chủ, cũng từng bị họ đánh tơi bời do ham chơi với đám bạn giữ trâu cùng trang lứa trong làng nên để trâu ăn lúa. Lớn lên ông lại theo ba mạ đi làm thuê cuốc mướn phụ giúp gia đình.
Khi đến tuổi trưởng thành, nhận thức được sự tàn khốc, tủi nhục của người dân nô lệ, nên cùng nhau theo trai tráng tham gia các phong trào đấu tranh chống quan lại cùng mọi người yêu nước trong làng.
Đến năm 1944 được sự giáo dục giác ngộ của các anh chị, cô chú trong phong trào Việt Minh, ông đã tham gia Tổ hội Việt Minh để trực tiếp ôm súng chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược.Tổ hội Việt Minh này sang lập căn cứ ở vùng Khe Chuối. Hàng đêm bơi về phía cuối làng để nắm tình hình địch và nhận lương thực do người dân cung cấp cho kháng chiến.
Do tích cực hoàn thành những nhiệm vụ được cấp trên giao phó cùng với sự nỗ lực phấn đấu cho Đảng và cách mạng nên vào năm 1949 ba em được kết nạp vào Đảng. Đó là phần thưởng vô cùng quý giá và xứng đáng có được cho sự đấu tranh không ngừng nghỉ, cống hiến trung thành cho cách mạng của ba em.
Năm 1948, ba em lấy vợ, người mà ba em yêu thương bấy lâu nay là mẹ em, tên Nguyễn Thị Môn, đến năm 1949 mẹ em sinh con gái đầu long với niềm hạnh phúc vô tả. Do bên nhà ông bà nội em không được rộng rãi nên bà ngoại em đã xin phép đưa mẹ em về ở nhà ngoại. Nhà bà ngoại gần Giếng Chùa nên là địa điểm rất thuận tiện cho ba tôi và Việt Minh về công tác hàng đêm.
Nghe mẹ em kể lại khi còn con gái chưa lấy chồng, bà cũng tham gia vào hội Phụ nữ cứu quốc và hằng đêm thường ra đình làng Trần xá. Đình làng cũ hồi ấy gần nhà ông Đổng, nhìn qua Cồn nổi làng mình đó anh. Các chị phụ nữ nhanh nhẹn băng bó cứu chữa thương binh từ các nơi đưa về.
Mẹ em khi vui miệng thường kể chuyện chiến đấu của dân làng Trần Xá chống giặc Pháp và bọn Việt gian phản động ôm chân đế quốc Pháp. Trong nhiều câu chuyện mẹ kể, em nhớ nhất câu chuyện thông minh của mẹ… Khoảng tháng 6 năm 1949 vào một đêm khuya, khi trong nhà chỉ có ba người phụ nữ và một cháu nhỏ đang ngủ thì nghe có bước chân đi ngoài đường sau đó vào nhà gõ cửa rồi cất tiếng kêu: “Dậy, dậy, tôi là Việt Minh về đây”. Bà dì nghe nói Việt Minh về thì mừng rỡ định ngồi dậy ra mở cửa, bà ngoại cũng lồm cồm ngồi dậy định đi xuống bếp pha nước chè. Mẹ tôi nhanh tay kéo dì và ngoại lại rồi xua tay lắc đầu ra hiệu dừng lại. Thế là hai bà nằm im xuống lại. Sở dĩ mẹ tôi làm vậy là vì nghe tiếng gõ cửa sai với mọi khi. Ám hiệu mà ba tôi và các cô chú Việt Minh mỗi lần về là gõ vào cửa ba cái sau đó cào cửa ba cái nữa thì mới đúng.
Sau khi ngoại và dì đã nằm yên xuống lúc đó mẹ em kêu lên thật to: Ối làng nước ơi !!! Đêm hôm ba mẹ con bà già đang ngủ mà có Việt Minh về réo gọi này …
Ba người nhất quyết không ra mở cửa, gõ cửa kêu gọi một lúc nhắm thấy không được bọn chúng bèn bỏ đi, mẹ em nghe bọn nó nói với nhau “Nhà này không phải Việt Minh”.
Từ sau vụ đó bà ngoại và dì luôn cảnh giác với chiêu trò của giặc, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Việt Minh về công tác trong làng.
Đến năm 1950 ba em được vinh dự đứng vào hàng ngũ bộ đội chính qui của quân đội trở thành bộ đội chủ lực tham gia nhiều trận đánh ở Cồn Dừa thuộc địa phận Hiền Ninh và hành quân khắp nhiều vùng miền khác. Sau đó ông được bổ sung vào Sư đoàn 162, vinh dự tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và được điều động lên chiến đấu ở Thượng Lào nhằm ngăn chặn quân Pháp đổ bộ từ Lào đánh về Điện Biên. Rất tiếc trong chiến dịch này đến khi chiến thắng Điện Biên thì ba em bị thương, ông được đưa về Thanh Hóa để chữa trị và điều dưỡng.
Cho đến đầu năm 1955 ông được xuất ngũ trở về địa phương, từ đó tám anh chị em lần lượt ra đời anh ạ.
Tôi cười to nói đùa với anh Thi: Ha ha… có lẽ về nhà ông “chiến đấu…” bù lại những năm xa vợ em hè.
Hai anh em phá lên cười khanh khách rất vui vẻ. Anh Thi lại nâng bình trà châm nước vào hai tách rồi kể tiếp. Dù trở về là thương binh sau bao năm chiến đấu nhưng ông có chịu ngồi yên đâu, hết làm chuyện này đến chuyện khác, hết chuyện gia đình lại tham gia chuyện xã hội.
Từ năm 1956 ba em được bầu vào Đảng ủy viên, làm phó chủ tịch Ủy ban hành chánh kiêm Trưởng Công an xã cho đến năm 1962. Tưởng ông về nghỉ để bảo đảm sức khỏe của người thương binh, nhưng không đến năm 1963 ông lại được sự tín nhiệm của các cấp lãnh đạo bố trí làm chủ nhiệm Xí nghiệp gạch ngói của thôn Trần Xá đóng tại đầu làng Hà Kiên hiện tại. Kể từ đó làng Trần Xá có thương hiệu Ngói Trần Xá để lợp nhà. Ngày nay nhiều căn nhà còn lưu lại những viên ngói Trần Xá trên mái nhà.
Những năm 1967 – 1969 giặc Mỹ điên cuồng đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc, rất ác liệt. Hồi đó bộ đội, dân công vào Nam phải đi qua bến đò Trúc Ly theo đường trục từ Diên Trường lên Trần Xá sau đó qua đò sang Hiền Ninh. Vì vậy Bến đò Trần Xá rất đông khách và máy bay giặc Mỹ thường xuyên dội bom và như trước khi căn cứ còn bom cài trên máy bay là chúng trút hết xuống làng mình anh à. Đúng thời điểm đó ba em lại được công an huyện Quảng Ninh điều động về trực bến đò để điều hành hoạt động.
Kể đến đây anh Thi im lặng hồi lâu, nhìn về khoảng không mênh mông trước hiên nhà, như đang hồi tưởng về những tháng năm khốc liệt ấy. Tôi cũng lặng im tôn trọng khoảnh khắc ấy của Thi. Hai anh em im lặng hồi lâu trước khi Thi phá tan không khí đó: Uống nước đi anh kẻo nguội. Thi nâng tách trà đưa mắt về phía tôi mời mọc.
Khi Xã Hàm Ninh thành lập Hợp Tác Xã Hợp Nhất Trần - Hữu – Cung do ông Hoàng Đàm (nguyên Bí thư Huyện ủy về hưu làm chủ nhiệm), ba em lại được phân công nhiệm vụ Đội trưởng đội sản xuất. Trong nhiều năm sinh sống và công tác tại quê nhà ngoài chức vụ chính quyền, bên Đảng ông là Đảng ủy viên giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Những năm về sau do tuổi cao, vết thương tái phát và gia đình đông con nên ông xin nghỉ tham gia các công việc chung để về chuyên chăm cho gia đình, làm kinh tế lo cho các con ăn học.
Ba em nghỉ hưu hưởng chế độ thương binh và chế độ hưu trí cán bộ xã. Trong quá trình tham gia cống hiến cho cách mạng, ông được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Huy chương Chiến công hạng nhì và nhiều bằng khen khác của các cấp.
Khi đã luống tuổi ông vẫn thành lập nhóm bộ đội Sư đoàn 162, ở trong làng gồm có 16 người chiến sĩ còn sống để hàng năm tổ chức sinh hoạt giao lưu ôn lại những năm tháng chiến đấu gian lao mà anh dũng, cùng nhau khuây khỏa tuổi xế chiều của bộ đội cụ Hồ điển hình là các cựu chiến sĩ Sư đoàn 162 ở làng Trần Xá. Ông cũng cho may một lá cờ Tổ quốc có in dòng chữ QUYẾT THẮNG để khi các thành viên ra đi thì phủ lá quốc kỳ ấy lên quan tài để tỏ lòng tri ân chiến sĩ Sư đoàn 162.
Cả cuộc đời của ba em là người có trách nhiệm với vợ con gia đình, luôn hoàn thành những nhiệm vụ được cấp trên giao phó, sống chan hòa với bà con chòm xóm và giúp đỡ mọi người nên hầu như cả làng đều quý mến ông.
Vào một ngày cuối thu năm 2007 ông đã nhắm mắt xuôi tay về với tổ tiên ông bà, hưởng thọ 83 tuổi. Ông ra đi để lại bao niềm tiếc thương của con cháu và người dân làng Trần Xá.
Hai anh em ngồi im lặng hồi lâu, mỗi người chìm trong suy nghĩ riêng tư. Tôi lại nhớ ba tôi, người chiến sĩ tình báo quả cảm đơn thân một mình vào Nam sống trong lòng địch để gửi về Trung ương những tài liệu quý giá góp phần trong chiến thắng lịch sử 1975. Bác Hoàng Đàm, bác Nguyễn Văn Vĩnh và bao nhiêu bác chiến sĩ năm xưa của làng ta đã cống hiến tuổi thanh xuân cho Đảng, cho cách mạng để có được đất nước hòa bình giàu mạnh như hôm nay.
Anh Thi phá bầu không khi im lặng bằng cách rủ rê chiều ni hai anh em mình ra quán dưới sông làm lai rai vài lon bia anh hè. Tôi cũng vui vẻ hứa chiều đi nhậu cho vui, nhưng chiều đó chú út nói tôi chở chú đi Đồng Hới có công việc gia đình nên tôi đành khất lại với anh Thi hôm khác.
Ấy thế mà cho đến hôm nay trở về Đà Lạt tôi vẫn còn dang dở một lời hứa vui vẻ lai rai bia bọt với anh Thi, người thầy giáo có duyên nợ với thi ca…
                                 Đà lạt, những ngày mùa đông.
                                          26/12/2023