Những năm kháng chiến chống pháp sau năm 1945, quân Pháp lấy đình làm nơi đóng quân. Vì vậy cuối những năm 40 khi Pháp rút quân sang đóng đồn ở Cồn Dừa, ta đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến đốt luôn đình quyết không cho giặc Pháp làm nơi trú ngụ để đàn áp cách mạng.
Thể theo nguyện vọng của dân làng và con em xa làng, đình làng đã được xây dựng lại bằng tiền bạc và công sức đóng góp của dân làng và con em ở mọi miền đất nước và nước ngoài.với tổng kinh phí gần 2,5 tỷ đồng (chưa kể cung tiến bằng lễ vật và đồ thờ).
Đình làng Trần Xá mới là một công trình kiến trúc theo kiểu tuyền thống có 3 gian hai chái được khởi công xây dựng ngày 09 tháng 7 năm 2013 (tức ngày mồng hai tháng sáu năm 2013 - Theo can chi là ngày Bính Tý tháng Kỷ Mùi năm Quý Tỵ) và hoàn thành ngày 20/01/2014 (tức ngày hai mươi tháng chạp năm 2013 – Theo can chi là ngày Tân Mão tháng Ất Sửu năm Quý Tỵ)
Đình Làng được thiết kế bởi Công ty TNHH Xây dựng – Thương mại Tân Tiến do ông Nguyễn Văn Khương làm Giám đốc. Sản phẩm thiết kế đình làng là sự kết hợp trí tuệ của Công ty với sự tham gia của các công ty bạn ở TP Hồ Chí Minh trên cơ sở khảo sát các ngôi đình hiện có trong khu vực miền Trung và các đình làng khu vực miền Bắc.
Đình được xây dựng trên khuôn viên đất chung của làng có diện tích khoảng gần 5.000 m2. Tổng diện tích sàn của Đình là 154,84 m2 với chiều dài 15,8 m (gồm ba gian 3 m, hai gian chái 2,5 m, hai đầu hiên 0,9 m) và chiều rộng 9,8 m (gồm gian giữa 3 m, hai gian kề 2,5 m, hai hiên trước sau 0,9 m). Lối lên xuống đình chạy hết bốn phía đình với chiều rộng 2,25 m gồm 9 bậc, mỗi bậc rộng 0,25 m.
Kết cấu đình gồm 4 hàng cột trong đó có 8 cột chính còn lại là 16 cột phụ chạy xung quanh. Tám cột chính được đặt trên 8 móng trụ có kích thước 1,4 x 1,4 m nối với nhau bởi 8 dầm 0,2 x 0,2 m ở độ cao 4,88 m. Mười sáu cột phụ được đặt trên 16 móng trụ có kích thước 1,2 x 1,4 m. Tất cả các móng cột được liên kết với nhau bằng dầm móng kích thước 0,2 x 0,2 m.
Mái đình có kết cấu sàn bê tông dựa trên hệ thống dầm mái nối tất cả đỉnh cột. Phía trên dán ngói liệt kiểu xưa. Chính giữa mái đình có đôi rồng chầu nguyệt, hai đầu hình đao cong.
Trong đình, 3 gian trong gồm gian giữa là ban thờ thờ Thành hoàng làng, phía trên là bức cuốn thư từ thời xưa lập đình được lưu giữ với nội dung chữ nôm “Đức lưu quang”. Bàn thờ gồm Bài vị Thành hoàng làng ở giữa cao nhất, tiếp đến là lư đồng. Trước lư đồng là bát hương và và đôi giá nến hai bên. Phía trước bàn thờ là đôi hạc đồng ngự trên lưng rồng chầu. Hai bên bàn thờ là đôi lộng che.
Gian bên trái là ban thờ các bậc tiền nhân và các dòng họ đã có công xây dựng lập làng. Còn gian bên phải là ban thờ thờ các đời tiền liệt, liệt sỹ của làng đã hy sinh trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Cách bố trí hai bàn thờ này giống như bàn thờ giữa thờ Thành hoàng làng.
Ba gian ngoài của đình đặt hai lọ hoa to bằng gỗ hai bên, ở giữa phía trước đặt bộ lư hương đại và đôi hạc đồng. Gian bên phải đặt bộ bát bửu, trống và bù ru.
Sân đình được bài trí theo kiểu truyền thống. Ngay trước đình là lư hương lớn và hai hạc chầu hai bên. Phía phải là giếng và ngựa hồng, phía trái là ngựa trắng. Trước sân là bức bình phong được chạm khắc tinh vi.
Xung quanh đình được bao bởi hàng rào cao 1,5 m. Cổng đình gồm 4 trụ to với họa tiết và câu đối chia làm 1 cửa chính và hai cửa phụ bằng thép để đóng mở.
Làng quy định ngày rằm tháng bảy hàng năm là “Ngày Lễ hội đình làng” để tri ân và vinh danh Thành hoàng làng, các dòng họ làng và các Liệt sỹ của làng.
Người chấp bút
Nguyễn Thanh Tùng


