Với tinh thần đó, Website xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Tùng để cùng bàn luận về vấn đề nêu trên.
Vừa qua Website có đăng hai bài viết của tác giả Nguyễn văn Hòa: “Tìm hiểu lịch sử về Làng” đăng ngày 4/10/2014 và “Văn hóa Làng, những di tích cần được bảo tồn” đăng ngày 6/10/2014. Tôi thấy một số vấn đề nêu lên chưa thật chính xác cần được làm rõ như sau:
1. Trong bài “Tìm hiểu lịch sử về Làng” sau khi trích tài liệu, tác giả có nêu ý kiến “Chúng ta hy vọng rằng các bậc tiền khai khẩn của làng có gốc từ Ý Yên - Yên Đồng – Nam Định bởi ở đó có một làng tên Trần Xá và tên cũ của họ là Làng Tràn miền đất có 2 con sông hợp lưu có đình thờ danh tướng Nguyễn Bặc trong bộ tứ trụ đời Nhà Đinh”.
Theo tôi ý kiến này là không có cơ sở vì mấy lý do sau:
- Làng Trần Xá chúng ta có lịch sử tên gọi là Xã Trần Xá đã hơn 500 năm. Điều này được minh chứng qua tài liệu gia phả các dòng họ và qua tài liệu “Ô châu cận lục” của tiến sỹ Dương Văn An;
- Xã Trần Xá thuộc huyện Đại An trấn Sơn Nam (nay là làng Tràn, xãYên Đồng, Ý Yên, tỉnhNam Định)theoBách khoa toàn thư mở Wikipediathì “được tiến sĩ năm 1469 triều vuaLê Thánh Tônglà Trần Bảo (1449-1529) khai hoang lập nên. Trần Bảo quê gốc ở Trần Xá, Đại An thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng, nhớ đến quê cũ nên đã đặt tên làng do mình khai khẩn theo tên quê gốc”. Như vậyxã Trần Xá thuộc huyện Đại An trấn Sơn Nam (nay là làng Tràn, xãYên Đồng, Ý Yên, tỉnhNam Định) có thời gian ra đời khoảng đầu thế kỷ XVI tương đương sự ra đời của xã Trần Xá của ta xưa (nay là làng Trần Xá).
Do vậy không thể có chuyện “hy vọng rằng các bậc tiền khai khẩn của làng có gốc từ Ý Yên - Yên Đồng – Nam Định” như tác giả Nguyễn Văn Hòa nêu trong bài viết của mình.
2. Trong bài “Văn hóa Làng, những di tích cần được bảo tồn” tác giả viết “Mảnh đất mà chúng ta đang sống vốn là đất cũ của người Chiêm Thành. Các bậc Đế Vương, các danh tướng từ thời Tiền Lê đến các Chúa Nguyễn đều có sự hiện diện trên mảnh đất này trong gần 1 thế kỷ bình Chiêm, mở cỏi và thống nhất giang sơn. Chủ nhân đầu tiên của làng là người Chiêm, văn hóa mà họ để lại rõ nhất đó là Giếng Thùng”. Theo tôi đây là một ý kiến hết sức chủ quan và không chính xác.
Lý do có thể dẫn ra các tài liệu sau:
- Nhưtrong bài viết “Vùng đất Trần Xá có lịch sử bao nhiêu năm”,tôi đã trích trongtài liệu “Địa chí Quảng Bình” Chủ biên Nguyễn Khắc Thái năm 2007 Chương VIghi rõ “Theo sự phân chia bộ lạc dưới thời kỳ Văn Lang,Quảng Bình thuộc bộ Việt Thường, một bộ ở phía nam trong 15 bộ lạc của Nhà nước Văn lang(A195:45).
Sau khi chiếm được Nam Việt, nhà Hán lập Bộ Giao Chỉ gồm 6 quận đất Nam Việt của Triệu Đà cũ và 3 quận của đất Âu Lạc trước đây là Giao Chỉ (Bắc bộ) Cửu Chân (Bắc trung bộ) và Nhật Nam (Trung trung bộ). Theo sự phân chia đơn vị hành chính thời nhà Hán thì vùng đấtQuảng Bình ngày nay thuộc quận Nhật Nam.Mặc dầu có những nổ lực to lớn, bọn thống trị phong kiến phương bắc vẫn không thể với tay xuống dưới cấp huyện, vẫn không thể khống chế nổi cơ sở bên dưới, nghĩa là không khống chế trực tiếp được đông đảo các tâng lớp nhân dân. Trong phong trào chống ngoại xâm và những truyền thống mạnh mẽ của xã hội dựa trên nền tảng công xã của người Việt đã hạn chế phạm vi thống trị của kẻ địch, khiến cho chính sách thống trị của chúng rốt cuộc vẫn là chính sách “ràng buộc” lõng lẻo. Nhiều miền đất nước ta còn ngoài phạm vi thống trị của phong kiến phương Bắc. Chính vì lẽ đó, khi nước Lâm Ấp được thành lập ở phía nam, người Chiêm thành đánh ra phía bắc chiếm hầu hết quận Nhật Nam,địa phận Quảng Bình trở thành một phần lãnh thổ của Chiêm thành vào giữa thế kỷ thư tư (năm 347).
Năm 1009,Lý Thái Tổ lên ngôi lập nên triều Lý, dời đô về Thăng Long, lãnh thổ của ĐạiViệt mới đến vùng phía bắc Đèo Ngang và thường xuyên bị quân Chiêm Thành phía Nam quấy phá. Năm 1069, Lý Thánh Tông xuống chiếu thân chinh, chọn Lý Thường Kiệt làm nguyên soái đi tiên phong dẫn quân đánh vào kinh đô của Chiêm Thành bắt sống vua Chiêm là Chế Củ. Để chuộc mạng, Chế Củ dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Năm 1075, Lý Thường Kiệt cho vẽ họa đồ hình thể núi sông của ba châu, vua Lý Thánh Tông đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh xuống chiếu chiêu mộ dân chúng đến ở và tổ chức việc cai trị. Vùng đất Quảng Bình trở thành lãnh thổ của quốc gia Đại Việt, mở đầu trang sử mở mang bờ cõivề phương Nam”.
- TheoBách khoa toàn thư mở Wikipediathì“Mùa hè năm 1923, hai thông tin viên người Pháp thuộcViện Viễn Đông Bác cổlà Max và Depiruy đã phát hiện di chỉ khảo cổ học Bàu Trócủa người Việt. Cuối mùa hè năm 1923, nhà địa chất kiêm khảo cổ học Etinen Patte đã tổ chức khai quật Di chỉ Bàu Tró và công bố kết quả nghiên cứu trong một báo cáo trên tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ nhan đề: "Về một di chỉ thời tiền sử đá mới, đống vỏ sò Ở Bàu Tró, Tam Tòa gần Đồng Hới". Với những di chỉ được tìm thấy tại đây như các công cụ bằng sinh vật biển như ốc, sò... và các công cụ bằng đá. Qua nghiên cứu cho thấy chúng có niên đại khoảng 5000 năm”.
- Theotài liệu “Da But Culture “Evidence for culture Develop men in Vietnam during the Middle Holocene” và “Quang Binh, Nuoc non huyen dieu, Van Nghe Publishing Housr, 2000, p.14, 15, 16, 17” thì“Các hiện vật khai quật tàiBàu Tróđã cho thấy người Việt đã đến định cư ở khu vực này từ 5000 năm. Trải qua một thời kỳ dài trong lịch sử, đây là khu vực tranh chấp giữa Vương quốcChampavà Đại Việt”
Như vậy đã rõ. Vùng đất Trần Xá nói riêng và vùng đất Quảng Bình nói chung là quê hương của người Việt chứ không phải là của người Chăm như ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Hòa. Trong một giai đoạn lịch sử (từ năm 347 đến 1075), người Chăm đã đến chiếm vùng đất này và có xây dựng các công trình văn hóa ở đây. Vì vậy mà các di tích vẫn còn lại trên các làng quê Quảng Bình trong đó có làng Trần Xá.
Nguyễn Thanh Tùng