Từ đời vua Lý Tháng Tông. Lịch sử Quảng Bình gồm nhiều cộng đồng dân cư, các nhóm cộng đồng người Việt sở tại, người Việt có nguồn gốc từ những cuộc di cư mở mang phương Nam của các triều đại phong kiến Việt Nam. Lịch sử miền đất luôn là tranh chấp của nhiều lực lượng xã hội khác nhau nên thường bị chia cắt và tạm thời gián đoạn. Công lớn đầu tiên thuộc về Lý Thường Kiệt danh Tướng đời vua Lý Thánh Tông. Do bị thất bại trong cuộc chiến 1069, Vua Chăm Pa Rudravaman đã cắt cho Đại Việt 3 châu Bố chính, Địa lý và Ma linh ( tương đương vùng đất từ Bố Trạch Quảng Bình đến Gio Linh Quảng Trị ngày nay). Đời nhà Lý đã đặt quan trấn thủ ở miền đất phương Nam mới được sát nhập. Riêng Lý Thường Kiệt đã có 35 năm từ 1069 đến 1104 xây dựng miền đất cũ của Chiêm Thành. Từ 1069 đến năm 1306 quan hệ 2 nước hữu hão, tuy nhiên đây là vùng đất hẹp giáp biên ải mà trước đây Chiêm Thành hay quấy phá Đại Việt nên dân cư vào lập nghiệp thời gian này chủ yếu là dân binh theo các quan trấn thủ nhằm củng cố lực lượng bảo vệ cương thổ quốc gia.

Quảng Bình quan về đêm
Năm 1036 để cưới công chúa Huyền Trân, quốc vương Chế Mân Simhavaman lại cắt 2 châu Ô và Lý( tức là từ Triệu Phong Quảng Trị đến Duy Xuyên Quảng Nam ) cho Nhà Trần sính lễ. Năm sau Nhà Trần đổi 2 châu này thành Thuận Châu và Hóa Châu. Đến đời vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 xứ trong đó xứ Thuận Hóa từ nam Đèo Ngang đến đèo Hải Vân (theo tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, Nguyễn Quang Ngọc. 137-141)
Năm 1307 vua Chiêm là Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì Huyền Trân phải hỏa táng chết theo. Vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung mượn tiếng thăm viếng và đưa Huyền Trân về nước vì vậy vua mới là Chế Chí không phục Nhà Trần và có ý đòi lại 2 châu Ô và Lý đã dâng. Năm 1311 vua Trần Anh Tông đánh Chiêm bắt được Chế Chí về giam lỏng ở Gia Lâm. Năm 1313 Chế Chí chết tại Gia Lâm. Đại Việt và Chiêm Thành thù oán từ đó cho đến sau này. Vào các năm 1318, 1342 và 1353 Nhà Trần can thiệp ngôi vua của Chiêm Thành mâu thuẫn 2 nước càng thêm rạn nứt.

Di tích Lủy Thầy ngày nay
Từ năm 1360 vua Chiêm là Chế Bồng Nga thấy quân Nhà Trần không còn hùng mạnh nên liên tục quấy phá biên giới Hóa Châu của Đại Việt vào các năm 1361-1362-1365 và 1366 . Từ tháng 3 nhuậnnăm 1371 đến tháng 6 năm 1383 kinh đô Thăng Long liên tục bị Chế Bồng Nga 4 lần cướp phá bắt người về nước. Từ năm 1380 đất Thuận Hóa , Tân Bình đã về tay Chiêm Thành. ( Cuộc chiến tranh Chiêm - Việt nguồn lịch sử Việt Nam). Từ năm 1307 đến năm 1383 dân chúng rơi vào cảnh lầm than bất ổn bị bắt bớ do Nhà Trần ngày càng suy yếu. Vận mạng đất nước đang đặt trong tay Hậu Trần – Nhà Hồ. Đúng vào thời điểm đó miền đất Quảng Bình đã rỏ ràng hơn trong lịch sử. Các danh tướng Nhà Trần – Hồ mở nhiều cuộc phản công từng bước lấy lại vùng đất Tân Bình –Thuận Hóa. Trận chiến đầu tiên do Thượng Thư Đại Hành Khiển Trần Bang Cẩn dòng dõi Nhả Trần vâng lệnh triều đình mộ quân vào phía nam của Đại Việt, vùng đất 2 bờ hạ lưu sông Gianh. Sau khi đánh thắng nhiều trận và dẹp yên Chiêm Thành ông đã tụ tập dân binh chiêu dân khai phá đất đai2 xứ Đông và Đoài của xã Quảng Lộc và một phần của Quảng Hòa huyện Quảng Trạch. Đền thờ ông được lập thời Hồng Đức 1403 tại làng Vỉnh Lộc, xã Quảng Lộc – Quảng Trạch đến nay đã trên 600 năm. (Tạ Đình Hàsở VHTT-DL Quảng Bình). Cuối thế kỷ 14 Hồ Cưởng được Hồ Quý Ly lúc bấy giờ với tước Đại Vương phong làm Chánh đội trưởng chỉ huy đạo quân 2400 vào đánh Chiêm Thành thắng nhiều trận giòn giã ở cửa Nhật Lệ, Bàu Tró, Phú Hội là ông tổ họ Hồ khai canh vùng Lý – Nhân – Nam huyện Bố Trạch. Lăng mộ Hồ Cưởng tại làng Nhân Trạch tên chữ Hán là Hồ Phúc Thuận. ( nguồn Quảng Bình ẩn tích thời gian sở VHTT – DL 2008).
Tiến sỹ Hoàng Hối Khanh một quan văn và tướng lĩnh triều Trần 1362 - 1407 đỗ tiến sỹ năm giáp tý 1364 đời vua Trần Phế Đế. Năm 1385 ông được vua Trần giao trọng trách tri huyện Nha Nghi (Lệ Thủy ngày nay) trấn giữ phía nam nước Đại Việt. Ông đã chọn Mũi Viết nằm giữa 2 con sông Bình Giang và Ninh Giang đóng huyện sở. Năm 1387 ông ra Hoan Châu và Ái Châu chiêu mộ dân 12 dòng họ vào khai canh lập ấp được tổ chức thành điền trang sở hữu khoảng 500 mẫu ruộng và từ đó lấy tên là Kẻ Tiểu. Đền thờ của ông nằm trung tâm huyện Lệ Thủy bị giặc Pháp phá hủy năm 1947. Năm 2002 dân làng Thượng Phong (Làng Kẻ Tiểu) đã lập đền ông tại quê nhà đền thờ đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa (Nguồn bảo tàng tổng hợp báo Quảng Bình). Hoàng Hối Khanh xứng đáng được tôn vinh là bậc tiền khai khẫn vùngPhong – Lộc – Xuân – An – Liên của huyện Lệ Thủy Đây là những tư liệu lịch sử quý và gần gũi với làng Trần Xá của chúng ta. Bởi các trận đánh thắng quân Chiêm Thành giành lại các vùng đất đã mất diễn ra tại Nhật Lệ , Bàu Tró Phú Hội không xa mấy với làng của chúng ta. Năm 1387 lực lượng 12 họ dân từ HoanChâu và Ái Châu được Hoàng Hối Khanh đưa vào lập ấp khai khẫn vùng đồng bằng 2 huyện chính là lực lượng đông đảo nhất cho sự hình thành các làng xã an cư lạc nghiệp của con cháu họ sau này. Thời đó phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng đường thủy, làng của ta lại ở ven sông Nhật Lệ đi Kiến Giang, Mũi Viết chắc chắn các bậc tiền nhân không thể bỏ qua vùng đất ven sông màu mỡ này. Chúng ta có thể khẳng định được rằng đây là cuộc di dân khai khẩn vùng đất Quảng Ninh – Lệ Thủy có quy mô, có tổ chức của nhà nước phong kiến triều đại cuối Nhà Trần – Nhà Hồ vào cuối thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15.
Cuộc di dân thứ 2 của ông cha ta được diễn ra vào năm 1558 theo Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp vùng đất Thuận Hóa. Thời kỳ này làng ta đã có tên trong lịch sử. Nhiều họ vào sớm đã có thể hiện trong gia phả. Các bậc tiền khai khẩn của làng do nhiều yếu tố khách quan khó khăn buổi đầu lập dựng làng dân tình đã phải chịu cảnh mất nước do Nhà Minh xâm lược nên đã không còn để lại sử sách cho con cháu hôm nay. Kể như tiến sỹ Dương Văn An nhà tinh thông sử địa người Quảng Bình ta đến nửa cuối thế kỷ 16 mới để lại Ô Châu Cận Lục cho đời thì con cháu hôm nay có thể hiểu được bao nhiêu khó khăn vất vả của thời kỳ đầu lập dựng nên làng vào đầu thế kỷ 15. Chúng ta hy vọng rằng các bậc tiền khai khẩn của làng có gốc từ Ý Yên - Yên Đồng – Nam Định bởi ở đó có một làng tên Trần Xá và tên cũ của họ là Làng Tràn miền đất có 2 con sông hợp lưu có đình thờ danh tướng Nguyễn Bặc trong bộ tứ trụ đời Nhà Đinh.

Con cháu hôm nay xin cúi lạy các bậc tiền nhân, tiền khai khẩn lập dựng nên làng. Qua nhiều cuộc chiến tranh sử sách của tổ tiên đã không còn đến được với thế hệ con cháu hôm nay. Thông qua lịch sử Việt Nam, lịch sử Quảng Bình và các bài viết chính thống liên quan đến làng từ buổi sơ khai. Con cháu mạo muội tập hợp và hệ thống thứ tự các tư liệu quý và gần gũi mong có thêm được sự hiểu biết và thống nhất chung nhằm từng bước ghi lại lịch sử của làng từ thưở sơ khai. Kính đội ơn các bậc tiền nhân đã có công lập dựng nên làng. Kính mong quý bạn đọc tham khảo và góp ý thêm cho bài viết.
Sưu tầm và giới thiệu:Nguyễn Văn Hòa
Trần Xá,Tháng 9 – 2014