LƯỢC GHI LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THỐNG DÒNG HỌ NGUYỄN ĐỨC LÀNG TRẦN XÁ XÃ HÀM NINH, HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH.

Ông Nguyễn Đức Nghĩa, một trong những người con ưu tú của làng Trần Xá đã từ biệt chúng ta hôm 28/4/2022 để về với tổ tiên ở tuổi 91.
Sinh thời ông là Trưởng họ Nguyễn Đức rất uy tín, có nhiều đóng góp to lớn cho việc duy trì gia phong, nền nếp và phát triển văn hóa đời sống, phong trào khuyến học cho họ lên một tầm cao mới. Ông cũng là người có nhiều đóng góp và tham gia tích cực cho nhiều hoạt động của làng như ủng hộ bộ âm ly, xe đưa đám ma, xây dựng đình, đường sá và các công việc khác của làng.
Để tỏ lòng kính trọng và thương tiếc vì sự ra đi đột ngột của ông, website làng xin giới thiệu đến quý vị và bạn đọc bài viết mang tính nghiên cứu của ông và đồng tác giả Nguyễn Đức Hoàn.
Trân trọng!
BAN BIÊN TẬP

LƯỢC GHI LỊCH SỬ VÀ TRUYỀN THỐNG
DÒNG HỌ NGUYỄN ĐỨC LÀNG TRẦN XÁ
XÃ HÀM NINH, HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH.

Chữ rằng “Mộc bản thủy nguyên
Là người phải nhớ Tổ tiên cội nguồn”
Làng Trần Xá là một làng quê nhỏ bé nằm ép mình trầm tĩnh và lặng lẽ dọc hữu ngạn sông Kiến Giang và sông Nhật Lệ, dưới chân núi Đâu Mâu trong dãy Trường Sơn hùng vĩ.
Theo phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672) cho đến thời nhà Nguyễn thuộc Pháp đô hộ thì làng Trần Xá là một trong những làng xã thôn ấp của Tổng Trung Quán, huyện Khang Lộc, tỉnh Quảng Bình. Đến trước cách mạng tháng 8/1945. Trần Xá vẫn là một làng thuộc tổng Trung Quán, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay trải qua nhiều biến động lịch sử, đến nay làng Trần Xá là một thôn của xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, là địa chí hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Chưa biết được làng Trần xá có từ bao giờ cũng chưa hiểu cặn kẽ vì sao làng Trần xá còn có tên gọi là Nhà Tràn, nhưng được biết làng Trần Xá cũng như một số làng xã hiện nay còn tồn tại ở Quảng Ninh và Lệ Thủy như Võ Xá, Quảng Xá, Phạm Xá, Lê Xá,…là xuất xứ từ cách tổ chức chính quyền của phương pháp gửi binh, làm ruộng thời phong kiến. Những đơn vị quân gửi lại làm ruộng khi trở thành làng xóm thường lấy tên người chỉ huy để đặt tên làng, nhưng thủ tục người xưa không gọi tên mà lấy họ để tỏ lòng kính trọng. Trần Xá là làng ông họ Trần, Phạm Xá là làng ông họ Phạm,…
Làng Trần Xá đất không rộng, người không đông, phía Tây ven sông Kiến Giang và Nhật Lệ, phía Đông giáp xã Võ Ninh, Duy Ninh, phía Bắc giáp thôn Quyết Tiến, phía Nam giáp làng Trung Quán. Sau nhiều năm biến động lịch sử, đến trước cách mạng tháng 8/1845, toàn thôn chỉ 600 người với 100 hộ và đến nay cũng có khoảng 2000 dân sống quây quần trong diện tích chưa đầy 2 km2 . Từ xưa đến nay, làng Trần Xá là vùng thuần nông không có nghề phụ, có những thời kỳ làm đá, xẻ đá, khai thác rừng cũng vì mục đích mưu sinh trước mắt chứ chưa phải là một nghề được phát triển truyền thống lâu dài. Tuy là một làng quê nhỏ bé, nhưng có nhiều di tích cổ kính. Đình làng to đẹp cổ kính đã bị tàn phá trong thời kỳ tiêu thổ kháng chiến chống Pháp. Nhà thờ, nhà chùa cũng bị tàn phá trong kháng chiến. Nhiều miếu, nghè có tên tuổi như Miếu ông Đội, Miếu Bà, Miếu ông Tiện, Miếu Thần Nông, và Nghè làng cũng đã bị phá hủy những năm sau cách mạng tháng 8. Con đường làng quen thuộc chạy dọc từ đầu đến cuối làng trước đây rải đá nay đã đổ bê tông. Làng Trần Xá có nhiều giếng và hồ. Giếng chùa ở cuối làng, hồ làng ở đầu làng. Đặc biệt có giếng thùng có mạch nước ngầm chảy quanh năm kể cả khi các vùng xung quanh đang hạn hán. Có người cho rằng đó là giếng chàm xây bằng đá rất cổ.
Trải qua nhiều biến động lịch sử, có 20 dòng họ đã từng sống bên nhau quây quần và hòa thuận trên mảnh đất nhỏ hẹp ấy. Dù là họ lớn hay bé luôn luôn thân thương đùm bọc lẫn nhau. Không phân biệt họ giàu, họ nghèo, nhiều phong tục tập quán có ý nghĩa trong cuộc sống của làng quê được duy trì và phát triển.
Dòng họ Nguyễn Đức là một trong những dòng họ lớn của làng Trần Xá. Tất cả các thế hệ hậu duệ của dòng họ Nguyễn Đức rất tự hào đã sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất Trần Xá dịu hiền, thơ mộng nhưng cũng rất anh dũng kiên cường trong chiến đấu và lao động sản xuất.
Tộc phả của họ Nguyễn Đức đã ghi nhận cụ Nguyễn Đức My là thủy tổ của dòng họ Nguyễn Đức ở làng Trần Xá. Cụ đã từng khai khẩn đất đai và sinh cơ lập nghiệp vào những năm 1500.
Đời thứ hai sinh hạ được 2 cụ ông là cụ Nguyễn Đức Thặng và cụ Nguyễn Đức Vạn.
Đời thứ ba sinh hạ được 7 cụ (5 cụ ông và 2 cụ bà) nhưng chỉ có 3 cụ ông có con nối dõi tông đường.
Đời thứ 4 sinh hạ được 7 cụ (4 cụ ông và 3 cụ bà). Cụ Nguyễn Đức Hướng là người khai biên gia phả của họ Nguyễn Đức.
Đời thứ 5 sinh hạ được 8 cụ (5 cụ ông và 3 cụ bà), có 3 cụ ông có con nối dõi tông đường
Đời thứ 6 sinh hạ được 3 cụ ông.
Đời thứ 7 sinh hạ được 13 cụ (5 cụ ông và 8 cụ bà). Đây là lần đầu tiên họ Nguyễn Đức sinh hạ nhiều nhất, nhưng sau đó không biết vì lý do gì chỉ còn lại duy nhất một người đó là cụ Nguyễn Đức Huyên.
Chuyện kể rằng, cụ Huyên đã bỏ quê hương ra đi từ năm 14 tuổi, sau 15 năm cụ lại trở về quê hương, bà con thường gọi là Bộ Huyên.
Như vậy, qua 7 đời, từ thủy tổ đến đời cụ Huyên, dòng họ Nguyễn Đức tiếp nối nhau có 38 cụ (24 cụ ông và 12 cụ bà). Cụ Nguyễn Đức Huyên là người còn lại duy nhất sau 7 đời dòng họ Nguyễn Đức phát triển. Chính nhờ có cụ Huyên mà sau này dòng họ Nguyễn Đức phát triển mạnh mẽ và là người tạo nên các chi phái như ngày nay. Để nhớ công ơn của các cụ các hậu duệ những đời sau. Lấy ngày giỗ cụ (12/2 âm lịch hàng năm làm ngày thăm viếng tổ tông ông bà. Tổ tông của họ Nguyễn Đức là những cụ đã có công người khai khẩn ruộng đất, lam lũ làm ruộng để mưu sinh vừa phát huy truyền thống họ tộc, duy trì nòi giống ngày một dông đúc sum vầy.
Sau hàng chục, hàng trăm năm cơ cực lam lũ và qua cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, của Trịnh Nguyễn phân tranh, thì dòng họ Nguyễn Đức dần dần được phục hồi. Đến đời thứ 9 chỉ có 12 cụ (8 cụ ông và 4 cụ bà), đến đời thứ 10 đã có 39 cụ.
Các cụ đời thứ 9 và đời thứ 10 đông đúc hơn trước, các cụ đã có của ăn của để, nhiều cụ đã biết chữ, một số cụ đã có chức sắc trong thôn xóm được bà con quý mến như các cụ Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Đức Đại, Nguyễn Đức Ôn,…
Đời thứ 11, 12, 13, 14 và 15 của dòng họ Nguyễn Đức vào khoảng từ năm 1900 đến những năm 2000 gần tròn 1 thế kỷ này các thế hệ con cháu của dòng họ Nguyễn Đức được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh liên miên. Sau 62 năm thực dân Pháp đô hộ (1883 – 1945). Toàn dân đã kháng chiến chống Pháp 8 năm (1945 – 1954). Nam Bắc tạm chia làm 2 miền. Cuộc kháng chiến chống Mỹ trên 20 năm. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trên 30 năm dòng họ Nguyễn Đức đã có hàng trăm con cháu lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, lớp lớp con cháu trai tài gái đảm, dâu hiền rễ thảo đã đóng góp tài năng trí lực của mình vào việc bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước. Cùng với lớp cán bộ kháng chiến chống Pháp đầu tiên có cụ Nguyễn Đức Sung là cán bộ tiền khởi nghĩa tham gia xây dựng du kích Võ Duy Hàm là cán bộ lảnh đạo của huyện Quảng Ninh từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Dòng họ Nguyễn Đức mãi mãi ghi công và biết ơn liệt sỹ Nguyễn Đức Nam, bác sỹ đã hy sinh anh dũng ở chiến trường miền Nam. Liệt sỹ Nguyễn Đức Thẻ là hậu duệ đời thứ 12 đã góp giọt máu đào vào việc bảo vệ tổ quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Có thể nói cho đến đời thứ 12 và những đời sau này do yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội ngày càng có nhiều con cháu của dòng họ được học tập và đào tạo hơn những thế hệ trước. Lớp con cháu đầu tiên có trình độ cử nhân của dòng họ là các ông: Nguyễn Đức Nghĩa- kỹ sư công nghiệp, Nguyễn Đức Hoàn- cử nhân sư phạm Toán Lý, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Đức Riêu- bác sỹ. Một điều rất đáng phấn khởi là tộc phả của họ Nguyễn Đức mới được phát hiện nơi lưu dữ và được cụ ông Nguyễn Đức Sung (1905-1989) hậu duệ đời thứ 10 của dòng họ đã dịch tộc phủ từ bản chữ Hán ra chữ Việt từ năm 1980 hiện nay đang lưu giữ lại nhà trưởng họ Nguyễn Đức Nghĩa.
Mở đầu bản tộc phả có ghi: “Từng nghe: Nước có trăm khe nghìn suối, khe suối ấy không phải tự nó mà có được. Cây có nghìn cành muôn lá, cây lá ấy không phải tự nó mà sinh ra. Bởi vậy cây có cội, nước phải có nguồn. Nhờ có cội cây mới đâm chồi nảy lộc. Nhờ có nguồn nước mới đổ suối tuôn khe. Ôi vật kia còn có nguồn gốc như vậy huống nữa là người. Khí thiêng sông núi chung đúc nên người con quế cháu lan nối dòng kế hậu đó không phải nhờ ông bà tích đức lụy tâm mà có hay sao”.
Cổ xưa nói: “Gốc rễ sâu thì cành lá tốt. Nguồn nước lớn thì khe suối dài. Nay được thấy con đàn cháu lũ sum vầy mà không biết sự thịnh vượng đó có bởi từ đâu khác nào thấy suối mà không biết đến nguồn. Thấy cành mà không biết đến cội. Đáng mừng thay họ Nguyễn Đức ta trời che đất chở, nhờ phúc ấm ông bà cưu mang đùm bọc, trên dưới thuận hòa đến nay trải có mười mấy đời thành một họ lớn có nhiều chi phái. Để ghi nhớ gốc tích ông bà , công ơn sinh dục nên kính cẩn ghi lại bản mục lục gia phả này để lưu lại cho con cháu đời đời về sau này”.
Thực hiện lời khai biên của tộc phả, kế thừa truyền thống của gia tộc. Ngẫm lại từ ngày thủy tổ dựng nghiệp đến nay trải hơn 500 năm thời gian bình yên chẳng được bao lâu mà nước nhà hầu như triền miên chìm đắm trong cảnh loạn lạc chiến tranh. Dân lành khắp nơi phải gánh chịu biết bao gian nan cơ cực. Ấy vậy mà ơn đức tổ tông dòng họ chúng ta tới nay đã phát triển đến 15 đời.
Đời sau lớn mạnh hơn đời trước con cháu ngày một đông đúc sum vầy. Cho đến nay (năm 2000) kể cả con trai, con gái, dâu rễ đã có đến 1.830 người. Tất cả các thế hệ con cháu đều quy tụ ở quê hương. Những con cháu đi xa quê hương cũng luôn hướng về nguồn cội nơi tổ tông ông bà đang yên nghỉ bên bờ sông Nhật Lệ, dưới chân núi Đầu Mâu hùng vỹ.
Từ khi kết thúc chiến tranh đến nay, dòng họ Nguyễn Đức quy hoạch mồ mã tổ tông xây lăng dòng họ Nguyễn Đức và các chi phái, đã tổ chức chu lễ ba đến năm năm một lần. Vào những ngày thiêng liêng ấy con cháu xa gần nội ngoại quây quần trước bàn thờ, lăng mộ của tổ tông ông bà vừa kính cẩn thắp những nén hương thơm tưởng niệm tổ tông ông bà, vừa luôn nhắc nhở nhau, động viên nhau giữ gìn và phát huy truyền thống đạo đức, giữ gìn nét đẹp của dòng họ Nguyễn Đức là chịu thương, chịu khó hiền lành và giản dị, tần tảo chắt chiu trong lao động, giữ gìn được đạo đức của dòng họ Nguyễn Đức là nặng tình cảm, giàu lòng thương trọng nhân nghĩa.
*
* *
Sau mấy chục năm chiến tranh và trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Ngày nay sống trong hòa bình và phát triển kinh tế toàn dân ta nói chung, cũng như từng dòng họ nói riêng mới có điều kiện tìm hiểu về nguồn gốc tổ tiên. Đó là nét truyền thống văn hóa đẹp của nhân loại, đồng thời cũng là nguyện vọng tâm linh chân chính của mỗi chúng ta.
Tiếc thay do trải qua bao nhiêu thiên tai địch họa nên những tài liệu chứng cứ có thể giúp chúng ta hiểu hơn về cội nguồn, về lịch sử truyền thống của dòng họ vốn đã rất ít ỏi và còn bị thất lạc nên gây nhiều khó khăn khi tìm hiểu các tư liệu.
Tuy vậy dựa vào tộc phả còn lưu giữ được do cụ Nguyễn Đức Sung lược dịch. Qua những câu chuyện truyền thuyết và truyền miệng ở quê hương anh em chúng tôi gồm có: Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Đức Hoàn hậu duệ đời thứ 11 của họ Nguyễn Đức lược ghi lịch sử và truyền thống của họ Nguyễn Đức ở làng Trần Xá, xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Vì trình độ có hạn về tài liệu quá hạn chế nên chắc hơn việc biên soạn lược ghi lịch sử truyền thống của dòng họ còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi cầu mong các ông, các bà và con cháu họ Nguyễn Đức tham gia đóng góp để bản lược ghi ngày càng đầy đủ và chính xác để lại cho con cháu mãi mãi về sau.

Trần Xá, ngày 12 tháng 2 năm Qúy Mùi
NHỮNG NGƯỜI BIÊN TẬP
Nguyễn Đức Nghĩa – Nguyễn Đức Hoàn
PHỤ TRÁCH BẢN IN
Nguyễn Thị Tố Uyên