Nằm ở vị trí đầu nguồn của con sông Nhật Lệ, là nơi hợp dòng của hai con sông Long Đại – Kiến Giang. Làng Trần Xá xưa nay hay được nhắc đến là một vùng đất có vị trí thơ mộng uốn lượn theo bờ phía Đông của con sông.
Một vùng đất sơn thủy hữu tình làm cho những người con của làng khi đi xa luôn mong ước được trở về. Khách thập phương mỗi dịp được ghé thăm đều không khỏi thốt lên rằng “Miền quê này thật đẹp” bởi cảnh núi, sông, ruộng đồng, cây đa, đình làng, cổng Tam quan được sắp xếp như một bức tranh.

Cùng với vẽ đẹp vốn có nói trên thì Làng Trần Xá cũng chứa biết bao thăng trầm, dấu tích bi hùng sau những năm dài chiến tranh. Trong câu chuyện hôm nay, tôi muốn ghi lại một dấu tích chiến tranh mà từ thuở nhỏ khi vui chơi cùng mấy đứa bạn xóm trên thường hay chui vào ra hệ thống đồn bốt này nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa hiểu nhiều về nó.
Thật hiếm có một làng quê nào trong vùng lại có một hệ thống đồn bốt nhiều như ở Làng Trần Xá quê tôi. Chỉ trong vòng chưa đến một cây số vuông mà có đến 8 lô cốt và đồn được dựng lên tạo nên một hệ thống phòng thủ và kiểm soát gắt gao của giặc Pháp trong thời kỳ kháng chiến 9 năm.
Khi biết tôi có ý tò mò về chuyện này, bác Nguyễn Văn Biên – một cụ ông nay đã ngoài chín mươi kể lại.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 thì đến năm 1946, giặc Pháp quay lại xâm chiếm nước ta, chính quyền Cách mạng phải rút lên chiến khu để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài. Giặc pháp đã cho xây dựng hệ thống đồn ở đầu làng (tại điểm nhà anh Võ Hữu Cường ngày nay) nhằm kiểm soát trên tuyến đường sông ở ngã ba của làng ngăn chặn mọi sự tiếp tế, liên lạc với vùng chiến khu. Sau khi lập lên được một thời gian ngắn, chúng bị lực lượng du kích của ta đêm đêm trở về đánh phá nên phải bỏ đồn rút qua dựng trại đóng quân ở Cồn Dừa bên phía xã Hiền Ninh. Được ít lâu sau thì có một số lính trong lực lượng của địch đã liên hệ với du kích của ta đã tổ chức đánh úp đồn và giặc Pháp đã từ bỏ hệ thống kiểm soát nguồn tiếp tế của vùng đồng bằng lên chiến khu.

Đến năm 1952, khi cuộc kháng chiến bước vào thời kỳ quyết liệt, nhận thấy rõ tầm chiến lược của khu vực ngã 3 sông Nhật Lệ, Trên cơ sở đồn cũ trước đây, giặc Pháp đã tập trung củng cố, xây dựng lại hệ thống đồn bốt và lô cốt với quy mô lớn. Trong đó chúng xây một lô cốt ở cuối cồn nổi Trung Quán cùng với bệ pháo 37 ly, một lô cốt ở đầu cồn nổi Trần Xá. Dọc bờ sông chúng đặt một lô cốt tại vị trí (gần nhà bà Đèo sau này) một lô cốt ở vị trí (gần nhà anh Xây bây giờ). Ở sâu trên đất liền, chúng đặt một lô cốt tại khu đất (bây giờ là nhà bác Nguyễn Đức Lâm) và một lô cốt ở vị trí nhà anh Hồ Trọng Chiến hiện tại. Cùng với việc lập nên hệ thống đồn bốt như trên chúng đã lập nên hàng rào dây thép gai, chiếm hết gần nửa phần đất của làng, phát quang cây cối và đuổi dân làng ra sinh sống bên ngoài khu vực hàng rào.

Trong thời kỳ chiếm đóng, giặc pháp đã gây nên bao tội ác với nhân dân trong làng, nhiều chiến sĩ cách mạng của ta đã bị chúng sát hại.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết. Vào một đêm mà dân làng không ai còn nhớ rõ, lính Pháp từ các lô cốt và đồn đã lặng lẽ xuống thuyền rút đi, sáng hôm sau không còn một tên lính nào trên mảnh đất đất này nữa. Quê hương thoát khỏi ách nô lệ từ đó. Đồn của địch trở thành các điểm vui chơi trốn tìm, đánh giặc giả của bao thế hệ bọn con trai làng thuở trẻ trâu.
Hệ thống đồn bốt, lô cốt sau này trở thành công trình quốc phòng do Ban chỉ huy quân sự huyện quản lý. Tuy nhiên, do tác động từ nhiều yếu tố ngoại cảnh, con người, một số lô cốt nay không còn nữa. Cái thì bị phá bỏ, cái thì chìm sâu xuống lòng sông, một số thì nhà dân đã tôn nền và lấp. Nay chỉ còn một số và ngày càng dần đi vào quên lãng. Tuy vậy, với tôi thì hệ thống lô cốt trên quê mình là một phần dấu tích đau thương mà oai hùng gắn với lịch sử của đất nước, quê hương.
Nguyễn Đức Nhật

Cùng với vẽ đẹp vốn có nói trên thì Làng Trần Xá cũng chứa biết bao thăng trầm, dấu tích bi hùng sau những năm dài chiến tranh. Trong câu chuyện hôm nay, tôi muốn ghi lại một dấu tích chiến tranh mà từ thuở nhỏ khi vui chơi cùng mấy đứa bạn xóm trên thường hay chui vào ra hệ thống đồn bốt này nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa hiểu nhiều về nó.
Thật hiếm có một làng quê nào trong vùng lại có một hệ thống đồn bốt nhiều như ở Làng Trần Xá quê tôi. Chỉ trong vòng chưa đến một cây số vuông mà có đến 8 lô cốt và đồn được dựng lên tạo nên một hệ thống phòng thủ và kiểm soát gắt gao của giặc Pháp trong thời kỳ kháng chiến 9 năm.
Khi biết tôi có ý tò mò về chuyện này, bác Nguyễn Văn Biên – một cụ ông nay đã ngoài chín mươi kể lại.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 thì đến năm 1946, giặc Pháp quay lại xâm chiếm nước ta, chính quyền Cách mạng phải rút lên chiến khu để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài. Giặc pháp đã cho xây dựng hệ thống đồn ở đầu làng (tại điểm nhà anh Võ Hữu Cường ngày nay) nhằm kiểm soát trên tuyến đường sông ở ngã ba của làng ngăn chặn mọi sự tiếp tế, liên lạc với vùng chiến khu. Sau khi lập lên được một thời gian ngắn, chúng bị lực lượng du kích của ta đêm đêm trở về đánh phá nên phải bỏ đồn rút qua dựng trại đóng quân ở Cồn Dừa bên phía xã Hiền Ninh. Được ít lâu sau thì có một số lính trong lực lượng của địch đã liên hệ với du kích của ta đã tổ chức đánh úp đồn và giặc Pháp đã từ bỏ hệ thống kiểm soát nguồn tiếp tế của vùng đồng bằng lên chiến khu.

Đến năm 1952, khi cuộc kháng chiến bước vào thời kỳ quyết liệt, nhận thấy rõ tầm chiến lược của khu vực ngã 3 sông Nhật Lệ, Trên cơ sở đồn cũ trước đây, giặc Pháp đã tập trung củng cố, xây dựng lại hệ thống đồn bốt và lô cốt với quy mô lớn. Trong đó chúng xây một lô cốt ở cuối cồn nổi Trung Quán cùng với bệ pháo 37 ly, một lô cốt ở đầu cồn nổi Trần Xá. Dọc bờ sông chúng đặt một lô cốt tại vị trí (gần nhà bà Đèo sau này) một lô cốt ở vị trí (gần nhà anh Xây bây giờ). Ở sâu trên đất liền, chúng đặt một lô cốt tại khu đất (bây giờ là nhà bác Nguyễn Đức Lâm) và một lô cốt ở vị trí nhà anh Hồ Trọng Chiến hiện tại. Cùng với việc lập nên hệ thống đồn bốt như trên chúng đã lập nên hàng rào dây thép gai, chiếm hết gần nửa phần đất của làng, phát quang cây cối và đuổi dân làng ra sinh sống bên ngoài khu vực hàng rào.

Trong thời kỳ chiếm đóng, giặc pháp đã gây nên bao tội ác với nhân dân trong làng, nhiều chiến sĩ cách mạng của ta đã bị chúng sát hại.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết. Vào một đêm mà dân làng không ai còn nhớ rõ, lính Pháp từ các lô cốt và đồn đã lặng lẽ xuống thuyền rút đi, sáng hôm sau không còn một tên lính nào trên mảnh đất đất này nữa. Quê hương thoát khỏi ách nô lệ từ đó. Đồn của địch trở thành các điểm vui chơi trốn tìm, đánh giặc giả của bao thế hệ bọn con trai làng thuở trẻ trâu.
Hệ thống đồn bốt, lô cốt sau này trở thành công trình quốc phòng do Ban chỉ huy quân sự huyện quản lý. Tuy nhiên, do tác động từ nhiều yếu tố ngoại cảnh, con người, một số lô cốt nay không còn nữa. Cái thì bị phá bỏ, cái thì chìm sâu xuống lòng sông, một số thì nhà dân đã tôn nền và lấp. Nay chỉ còn một số và ngày càng dần đi vào quên lãng. Tuy vậy, với tôi thì hệ thống lô cốt trên quê mình là một phần dấu tích đau thương mà oai hùng gắn với lịch sử của đất nước, quê hương.
Nguyễn Đức Nhật