Chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1972 – 1973)
Ai đã từng đi qua chiến tranh mới thấm thía cái quý giá của sự bình yên những tháng năm hòa bình. Trải qua cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của giặc Mỹ, người dân Làng ta như cảm thấy lớn hơn, vững vàng hơn, yêu thương nhau hơn trong tình làng nghĩa xóm và hợp tác xã. Lứa chúng tôi ngày ấy được hưởng trọn vẹn hơn 4 năm học hành trong đó gần 3 năm là học cấp III với khoảng trời trong xanh bình yên. Nhưng rồi những năm tháng ấy không còn nữa. Chiến tranh lại ập đến trong những ngày đầu tháng 4 năm 1972, khi mà năm học của học sinh gần kết thúc.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, giặc Mỹ tiến hành với quy mô và cường độ đánh phá ác liệt hơn hẳn so với cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
Những ngày đầu cuộc chiến, do phía ta chuẩn bị và tập trung lực lượng phòng không nhiều tầng nhiều lớp khá dày ở Quảng Bình, nhất là tên lửa nên máy bay Mỹ bị bắn cháy thường xuyên trên bầu trời. Ngay cả ban ngày, ai cũng nhìn thấy rõ quả tên lửa phóng lên tìm đến mục tiêu là máy bay và làm nó nổ tung trên cao. Chứng kiến hình ảnh đó, tất cả mọi người nhất là bọn trẻ chúng tôi thời đó cứ nhảy cẩng lên vỗ tay hoan hô bộ đội tên lửa của ta tuyệt vời.

Hệ thống phòng không nhiều tầng, nhiều lớp của quân dân miền Bắc
Việt Nam là cơn ác mộng đối với phi công Mỹ
Việt Nam là cơn ác mộng đối với phi công Mỹ
Nhưng rồi những ngày đó qua đi, những ngày tháng khó khăn đã đến, tên lửa của ta giờ không dể dàng bắn rơi máy bay Mỹ do chúng đã rút được kinh nghiệm. Nhiều lần chứng kiến máy bay Mỹ luồn xuống thấp tránh được nên tên lửa phải bay cao hết tầm và nổ thành đám mây trắng. Cùng lúc này số lượng máy bay Mỹ tăng gấp nhiều lần và tập trung đánh phá ác liệt vào các trận địa phòng không gây nên nhiều thương vong cho lực lượng của ta. Có ngày hàng chục tốp máy bay Mỹ tập trung đánh dai dẳng vào Trung đoàn pháo cao xạ bảo vệ phà Long Đại suốt trọn từ sáng sớm đến tối.
Cũng trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai này, Giặc Mỹ có sự thay đổi lớn về vũ khí và chiến thuật. Về vũ khí, ngoài những loại bom thông thường trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Mỹ đã sử dụng bom laze. Đây là loại bom cực kỳ lợi hại. Nên nhớ rằng trong hơn 4 năm bắn phá từ 1964 - 1968, một số cầu trên tuyến đường 15 vẫn không bị đánh sập như cầu Giếng Tiêu và một số cầu nhỏ không dễ bị lộ khác. Nhưng đến những ngày này, bom laze đã đánh trúng tất. Tôi còn nhớ ngày ấy quả bom được điều khiển gần như bay ngang đoạn cuối để tìm đúng mục tiêu. Bom laze còn gây nhiều thương vong cho những trận địa pháo của ta khi các khẩu đội chỉ tập trung hỏa lực bắn vào chiếc máy bay đang bổ nhào cắt bom. Về sau qua nghiên cứu, binh chủng Phòng không đã có tập huấn hướng dẫn cho bộ đội ta cách đánh máy bay thả bom laze bằng cách bắn vào chiếc bay vòng tròn trên cao điều khiển tia laze vào mục tiêu. Tuy nhiên việc bắn máy bay chiếu laze không dễ vì nó bay khá cao, khoảng 4- 5 km. Với tầm cao này chỉ có pháo cao xạ 57 mới vươn tới mà lúc đó pháo cao xạ 57 của chúng ta không có nhiều. Để giảm bớt thiệt hại, cách tốt nhất được phổ biến là dùng các giải pháp ngụy trang để che mắt máy bay dẫn đường laze.

Bom dẫn đường bằng laze GBU-1/B
Với vũ khí này, máy bay Mỹ đã gây cho ta nhiều tổn thất. Nhiều trận địa pháo 12ly7, 14ly5 và 37ly chỉ bắn khi thật cần thiết để khỏi lộ mục tiêu, còn lại ngụy trang chờ lệnh. Do vậy mà máy bay Mỹ hầu như làm chủ bầu trời. Ban ngày từng tốp 3 chiếc B52 dàn hàng ngang trên tít cao tạo ra 3 vệt trắng kéo dài bay nghênh ngang đi về. Ban đêm máy bay F4 gầm rú đinh tai rung cả căn hầm với khoảng cách chỉ từ 500 đến 1.000 mét.Một loại vũ khí khác mà Mỹ sử dụng ở khu vực Làng ta trong giai đoạn này là thủy lôi. Trước đây trên đường 15 máy bay Mỹ thả bom từ trường để khi có xe đi qua là phát nổ. Nay ngoài thả trên bộ, máy bay còn thả bom từ trường và thủy lôi xuống sông Nhật Lệ, Kiến Giang để khi tàu thuyền đi qua va phải hay bị hút sắt là gây nổ nhằm ngăn cản việc vận chuyển hàng từ bãi Vĩnh Tuy qua Kiến Giang lên Thượng Lâm đi vào Nam. Cả khúc sông thuộc xã ta bị phong tỏa bom dày đặc. Nhiều thuyền vận tải bị thủy lôi nổ tung lên hàng chục mét rồi lả tả rơi xuống gây tổn thất to lớn về người và hàng hóa. Lực lượng dân quân của Làng và Xã phải túc trực để làm nhiệm vụ hỗ trợ cứu người, cứu thuyền. Để thông phà, thông bến, thông sông, nhiều cán bộ cảm tử đã xung phong dùng ca nô phá bom từ trường. Trước khi đi họ đã làm lễ truy điệu sống. Các anh đã dùng ca nô lướt đi trên bom với tốc độ cao để kéo theo những cột nước dựng cao do bom bị kích nổ. Nhiều chiến sỹ đã anh dũng hy sinh cho cuộc chiến đấu này.

Thủy lôi phong tỏa cửa biển, đường sông
Trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, hầu như không có máy bay B52. Lần chiến tranh phá hoại này Mỹ sử dụng rất nhiều B52. Cả ngày lẫn đêm máy bay B52 tìm mục tiêu và rải thảm bom. Cứ mỗi lần thả là 3 loạt bom nổ rền liên tiếp làm rung chuyển cả một vùng rộng lớn.
Những năm tháng này, Làng ta là nơi đóng quân của bộ đội Binh trạm thuộc Đoàn 559. Ngoài ra, Làng còn là nơi ở cho các đoàn dân công hỏa tuyến, bộ đội lái xe trên tuyến lửa đường 15. Ban ngày họ dấu xe về nghỉ ngơi, đêm đến các anh, các chị lại lên đường lái xe ra tiền tuyến hay qua bãi Vĩnh Tuy chuyển hàng dưới ánh pháo sáng, máy bay gầm rú và bom đạn ngút trời.
Người dân làng Trần Xá rất yêu thương bộ đội và dân công hỏa tuyến. Nhất là các mẹ luôn coi các o các chú như những người con. Có lẽ trong chiến tranh, cái sống và cái chết quá gần nhau nên mọi người thực sự thương yêu, lo lắng cho nhau. Mặc dù khó khăn do chiến tranh nhưng có gì ăn được các gia đình đều mời các chú, các o dùng. Ngược lại, bộ đội và dân công thỉnh thoảng lại cho quà gia đình lương khô, thịt hộp. Thời đó bọn trẻ con chúng tôi khoái nhất là được ăn lương khô, nhất là loại 702 có hương vị ca cao, cà phê ngon tuyệt. Kỷ niệm trong chúng tôi thì nhiều nhưng có kỷ niệm vui là về chú bộ đội tên Phạm, người Hà Bắc bị sốt xuất huyết quá nặng tưởng không qua nổi nhưng nhờ sự chăm sóc tận tình của các mẹ mà chú may mắn bình phục. Còn kỷ niệm buồn là về chú Chung, bộ đội lái xe người Hà Nam khi buổi chiều hôm trước còn vui vẻ tạm biệt chúng tôi rồi hôm sau đi xa mãi mãi…
Chiến tranh thật quá khắc nghiệt và lạnh lùng. Ngày hôm trước các mẹ, các cháu và các chú, các o còn chuyện trò thân mật. Thế mà đến sáng hôm sau mười mấy người đã anh dũng hy sinh bởi những loạt bom B52 rải thảm xuống khu vực bãi Vĩnh Tuy. Thi hài các liệt sỹ được đặt ở nhà kho hợp tác xã. Tiếng cưa xẻ và búa đóng hòm vội vã như xát muối vào lòng người dân Làng ta với nỗi đau đớn khôn cùng. Nhưng vì tiền tuyến, vì miền Nam ruột thịt, đêm đêm dân công vẫn qua bãi, xe vẫn băng qua lửa đạn, thuyền vẫn vượt thủy lôi để đưa hàng vào mặt trận và dân làng ta vẫn đùm bọc chở che bộ đội, dân công.
Trong những năm tháng này, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã bước vào thời kỳ quyết định. Vì vậy mà lứa chúng tôi hầu như phải nhập ngũ. Ngày nhập ngũ năm 1972 là ngày đáng ghi nhớ của Làng. Ngoài hợp tác xã, các đoàn thể, còn có bà con, bạn bè đến thăm hỏi động viên con em lên đường đi chiến đấu. Nếu kể từ đầu Làng đến cuối Làng đợt này có các thanh niên: Anh Đèo, anh Hoàng, anh Dũng, anh Tùng, anh Tuyền, anh Tùng, anh Văn.
Có một thực tế là trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, mặc dù cường độ máy bay đánh phá ác liệt hơn, bom đạn tinh vi và nhiều hơn nhưng khu vực dân cư của Làng ít bị máy bay Mỹ oanh tạc. Những điểm như sông Nhật Lệ, khu vực đường 15 đi qua, bãi tập kết hàng là mục tiêu bắn phá của Mỹ nhất là ban đêm. Do vậy mà giai đoạn này Làng ta không phải sơ tán ra kênh mà bám trụ ở lại sản xuất và phục vụ chiến đấu. Đặc biệt lực lượng dân quân đã tham gia đưa đón bộ đội, cứu người, cứu hàng hóa khi xe, thuyền bị bom hay thủy lôi. Trong những người dân quân ưu tú có ông Thái Bá Khuyến đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ và trở thành người Liệt sỹ sỹ thứ hai của Làng ở hậu phương ác liệt này.
Tháng 12 năm 1972, trong cuộc chiến mười hai ngày đêm, Hà Nội đã lập nên một “Điện Biên Phủ trên không” bắn rơi hàng chục máy bay B.52 và F.111 cùng nhiều máy bay phản lực khác. Với thất bại này, ngày 30/12/1972 Chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấm dứt toàn bộ việc ném bom, bắn phá, thả mìn miền Bắc Việt Nam ngày 15/1/1972.
Từ đây Làng ta lại bước vào công cuộc xây dựng lại quê hương “mười lần to đẹp hơn” trong hòa bình. Nhưng những kỷ niệm về quê hương những năm tháng chiến tranh mãi mãi không bao giờ phai mờ trong tâm trí chúng tôi.
Nguyễn Thanh Tùng