QUÊ HƯƠNG TRẦN XÁ NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH CHỐNG MỸ

Hồi ký:
Tiến hành hai cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc (1964 – 1968), (1972 -1973) Giặc Mỹ muốn ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, phá hoại hậu phương, hòng làm lung lay ý chí kháng chiến của cả dân tộc Việt Nam. Đây là những năm tháng vô cùng gian khổ, căng thẳng, ác liệt của Làng, Xã ta nói riêng và Quảng Bình nói chung bởi nơi đây được mệnh danh là “túi bom”, “Tọa độ lửa”.

Làng Trần Xá nằm giữa hai bến phà huyết mạch chỉ cách nhau 4 km đường chim bay của tuyến đường 1 và tuyến đường 15 (Đường Hồ Chí Minh) để chuyển hàng ra tiền tuyến là bến phà Quán Hàu và bến phà Long Đại. Làng còn là ngã ba sông nối nơi tập kết hàng chủ yếu ở phía bắc là bãi Vĩnh Tuy lên Kiến Giang đến Ga Thượng Lâm (Lệ Thủy) để xe vận chuyển hàng lên đường 10, đường 22 vào miền Nam. Do vị trí trọng yếu như vậy nên khu vực Làng ta thường xuyên bị máy bay Mỹ bắn phá, oanh tạc nặng nề.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964 – 1968), làng Trần Xá bị đánh nhiều nhất, thường xuyên nhất và dữ dội nhất.
Giai đoạn này máy bay Mỹ không phân biệt mục tiêu quân sự hay dân sự mà cứ thấy nơi nào có đông người, màu sắc hơi khác, hay có hình xe cộ là chúng ném bom, bắn rốc két. Ban đêm cả vùng trời phía bắc (nơi bến phà Quán Hàu) và vùng trời phía nam (nơi bến phà Long Đại) luôn rực lên bởi ánh pháo sáng (Pháo sáng là một dụng cụ được chế tạo khá công phu gồm một ống nhôm chứa đầy chất cháy được treo lơ lửng trên không trung bởi một chiếc dù trắng rất rộng. Khi pháo sáng cháy hết, chiếc dù sẽ rơi xuống đất và đây là món quà rất tuyệt cho người thu được để dù thì làm khăn quàng cổ, trang trí, ống nhôm thì gò thành đồ dùng rất có giá trị thời đó). Dưới ánh pháo sáng, tiếng máy bay gào rít quần đảo soi mói từng mục tiêu rồi bom nổ rung chuyển cả trời đất. Ngoài việc đánh phá thường xuyên các mục tiêu khi phát hiện được, máy bay Mỹ còn trút xuống hai bến phà này những quả bom còn lại trước khi bay trở về (mà thời đó người ta gọi là bom tọa độ - tức định sẵn). Hai bến phà thời đó như vùng đất chết nơi hoang mạc, hố bom chồng lên hố bom, cây cối bị cháy sém bởi hơi bom và trên mặt đất bom bi chưa nổ nằm lăn lóc. Ban ngày hầu như không có bóng người nhưng đêm đến những người con gan góc lại ra với bến phà để chuyển xe qua ngay cả dưới làn bom đạn.
HK1

Làng ta bị trận bom tấn đầu tiên vào lúc hai giờ sáng. Tiếng bom nổ xé toạc màn đêm khi mọi người đang ngủ ngon giấc. Khi hoàn hồn nhìn lại thì nhà cửa bị hơi bom hất tung tất cả từ trong ra ngoài nhà. May mà chỉ có người bị thương chứ không có ai chết. Nhưng từ đó bắt đầu những trận bom liên tục. Những hố bom sâu hoắm (như hố bom trước nhà ông Tuyên, hố bom đôi ngoài nhà ông Cẩm, hố bom nhà ông Hịm, hố bom nhà ông Nết, hố bom nhà ông Niểu, hố bom sau nhà ông Hóa …) đã gây tang tóc đau thương cho các gia đình bị nạn. Đặc biệt khi cơ quan Huyện chuyển về Làng ta thì cường độ bắn phá của máy bay Mỹ càng tăng. Bất cứ lúc nào bất cứ ngày hay đêm chúng đều có thể oanh tạc. Do vậy mà số người chết đã tăng nhanh, có ngày chết đến 6 người.
Chiến tranh căng thẳng đến mức việc vượt sông đưa người chết sang bên rú để chôn cũng không thể thực hiện được. Một khu vực được tạm thời dùng làm nghĩa trang ngay sau Chùa và những nấm mồ mới tăng nhanh làm cho ai yếu bóng vía mỗi khi có việc đi qua, nhất là ban đêm đều phải rùng mình. Để đảm bảo toàn tính mạng, mỗi gia đình phải đi rừng lấy gỗ về làm hầm trú ẩn. Hầm làm theo kiểu chữ A và đưa cả giường được tháo hoặc cưa chân thấp xuống để sinh hoạt và ngủ. Ban đêm cả nhà dồn xuống chiếc hầm này. Tuy vậy, vẫn không tránh khỏi tổn thất sinh mạng khi cường độ bắn phá ngày càng tăng. Giặc Mỹ ném cả bom bi, bom sát thương, rốc két và cả bom lân tinh vào khu dân cư. Điển hình là vụ bắn rốc két vào buổi chiều khi cả Làng đang ăn cơm tối làm 6 người mất. Có nhà máu vương đầy cả mâm cơm đang ăn dở. Và đỉnh điểm là vụ máy bay Mỹ ném cả bom lân tinh vào xóm Chùa (nơi có nhà của ông Bí thư Huyện ủy Hoàng Đàm ở đó). Đây là loại bom cực kỳ nguy hiểm vì nhiệt độ cháy rất cao khó dập tắt và gây ra thương vong vì bỏng rất nặng nề. Khi cả xóm trùm trong lửa lân tinh, mọi người bỏ chạy ra đồng để tránh nạn thì máy bay lại rãi bom bi để sát thương. Trận bom này gây tang tóc đau thương cho cả Làng. Có nhà mất một lúc mấy người thân. Nếu ai từng chứng kiến cảnh chị Noãn gào khóc bên xác hai đứa con chết cháy vì bom lân tinh thì chắc mãi cả đời cũng không bao giờ quên được mối thù giặc Mỹ. Trong trận bom này ngoài tổn thất sinh mạng dân thường, lực lượng dân quân Làng tham gia cứu dân có anh Thẻ đã anh dũng hy sinh khi làm nhiệm vụ. Anh đã trở thành Liệt sỹ, trở thành tấm gương bất tử trong lòng người dân Làng ta.
Sau trận bom, cả Làng được lệnh phải sơ tán ra ngoài đồng. Những người ở lại là dân quân du kích và trai tráng khỏe mạnh. Khu vực ở mới là Kênh ngang. Ở đây mỗi gia đình được phân một ô có chiều ngang khoảng 5 mét để làm nhà hầm. Nhà hầm cơ bản được làm từ một đến hai vài nhà trong Làng được tháo mang ra. Phía trước làm một phòng sinh hoạt có đắp đất xung quang và cả phía trên. Phía sau là một hầm chéo kiên cố bằng cột nhà và gỗ chắc chắn. Đêm đến cả nhà vào ngủ trong hầm này. Tuy cực khổ, khó khăn nhưng rồi cũng quen dần, mọi người còn làm thơ để tếu vui:
Ờ! ngủ hầm cũng vui đấy nhỉ
Tối đến thì trò chuyện rì rầm
Không khí trong hầm cũng khá mát
Nhưng tiếc thay lại ít ô xy.
Cuộc sống ở vùng sơ tán ổn định dần. Trẻ con vẫn đi học, thanh niên tối tối vẫn túm tụm trò chuyện, hát hò trêu nhau. Hàng ngày, mọi công việc đồng áng vẫn tiến hành bình thường. Đến khi làm mùa và thu hoạch Làng phải phối hợp nơi ở cũ và nơi sơ tán để lên kế hoạch sản xuất và phải chia nhỏ người để tránh máy bay Mỹ nhòm ngó. Nhờ vậy mà những năm chiến tranh căng thẳng Làng ta vẫn thực hiện được khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” của Quảng Bình hai giỏi kiên cường. Mỗi khi người đi sơ tán có việc cần thiết phải quay lại nhà ở Làng là phải tranh thủ khi vắng máy bay để đi nhanh, giải quyết nhanh. Kỷ niệm đáng nhớ nhất mỗi lần về thăm nhà là những chú mèo bám trụ không chịu đi sơ tán cùng gia đình (mặc dù bắt bỏ bao tải mang ra đồng nhưng rồi chúng lại trốn tìm về được nhà cũ). Gặp được gia chủ chúng gào ầm lên đòi ăn và đầu thì cứ dụi dụi vào chân tay chủ rất tình cảm. Tuy đã sơ tán nhưng do chủ quan nên cũng có một lần khu vực Kênh Ngang bị máy bay Mỹ thả bom bi. May mà không trúng vào chỗ ở dân cư ở nên không ai bị thương vong.

Cho đến tháng 11 năm 1968, khi Mỹ dừng ném bom, cả làng ta mới dời nơi sơ tán mới về lại làng cũ. Khắp trong làng đầy vết tích đạn bom cày xới và không nhà nào còn nguyên vẹn. Từ đây mọi nhà lại bắt tay vào công cuộc kiến thiết mới sau chiến tranh phá hoại lần thứ nhất.
Nguyễn Thanh Tùng
(còn nữa)