Mảnh đất mà chúng ta đang sống vốn là đất cũ của người Chiêm Thành. Các bậc Đế Vương, các danh tướng từ thời Tiền Lê đến các Chúa Nguyễn đều có sự hiện diện trên mảnh đất này trong gần 1 thế kỷ bình Chiêm, mở cỏi và thống nhất giang sơn. Chủ nhân đầu tiên của làng là người Chiêm, văn hóa mà họ để lại rỏ nhất đó là Giếng Thùng.

So với các giếng cỗ ở làng Pháp Kệ xã Quảng Phương Quảng Trạch thì Giếng Thùng còn giữ được nhiều nét độc đáo của người xưa. Mẫu giếng chung là hình vuông được xây bằng từng lớp đá mỏng xếp rất đẹp, 4 mặt ngoài thẳng đứng. 4 trụ góc bằng gỗ to chắc chắn, loại gỗ tốt chịu nước không gây độc hại, mặt ngoài khép ván dày làm điểm tựa cho 4 thành đá, chống sập đổ. Bờ giếng được xây thẳng theo khung gổ cao khoảng 0.80m. Khuôn viên được xây tường bao mỏ lối vào, nền lát đá rất sạch sẻ. Điều chung nữa là không bao giờ khô hạn, nước luôn đầy trong và mát. Nhiều năm trước đây chưa có nguồn nước sạch cả làng đều nhờ vào nguồn nước ở đây phục vụ đời sống và vật nuôi. May mắn là qua bom đạn như thế nhưng giếng vẫn còn nguyên vẹn. Năm 2001 theo ý tưởng của con em xa quê do anh Võ Hữu Thịnh khởi xướng giếng đã được trùng tu lần thứ nhất, năm ngóai các hộ dân chung quanh góp tiền tôn tạo lần 2. Hiện nay Giếng Thùng vẫn phục vụ tốt cho dân gần đó.
Người Chiêm và người Việt cỗ ở đâu? Chúng ta không rõ lắm nhưng cách đó khoảng 100 m năm 2007, dân rà tìm kim khí đào được 5 nồi đồng đựng tiền đồng nằm rải rác cách nhau chừng vài chục m. Có thể đây là nơi ở của người xưa và chắc là quần tụ khá đông nên mới đủ sức thực hiện được một công trình quy củ như vậy.
Di sản thứ 2 có nguồn gốc rõ hơn đó là Đường Quan. Đây là công trình ít có trên địa bàn quanh ta. Con đường xuyên suốt từ đầu đến cuối làng, rộng rải lát đá có chiều rộng 0.60m bằng phẳng, nơi gần đường ngang vào đường xóm được lát rộng 1.50m đặc biệt có nhiều tấm đá rộng, dài đến 2.50m nặng phải trên 200kg dùng để bắc qua mương thoát nước nối vào đường các xóm. Đường Quan của làng tự nó cho ta biết làng vào thời kỳ hưng thịnh. Cùng với các công trình Đình, Chùa, Ngè, Nhà Thờ, Đường Quan mang tính kết nối hết sức đồng bộ của văn hóa làng Trần Xá. Qua 2 cuộc chiến tranh đã bị hư hại nhiều. Năm 2001 đường đã được bê tông rộng 3 m. Hiện một số đá cũ Đường Quan còn ẩn dưới mặt sân phía nam nhà văn hóa thôn.
Di sản thứ 3 phải kể đến đó là Đa Nhà Trần.

Cây đa cỗ thụ duy nhất còn lại đầu làng, những Cụ sống đến thập niên 60 của thế kỷ trước kể lại, lớn lên đã biết trèo đa hái quả. Vậy là cây đa cỗ đã có tuổi thọ đến trên 200 năm. Cây đa trẻ mới được cụ ông của anh Yêm trồng ở chợ, người lang gọi là đa Ông Cua vừa mới đó mà đã 60 năm, đang tôn cảnh bến nước, chợ quê, của làng Trần Xá. Hai thế hệ đa làng cần lắm được bảo tồn và phát triển.
Di sản thứ tư gần gũi với chúng ta nhất đó là Hồ Nước dân sinh. Với tổng dung lượng khoảng 3000m3 nước. Hồ đã phục vụ dân làng từ đầu thế kỷ 20 đến nay. Hồ đã được Nhà nước đầu tư xây bao, tạo bậc bến từ đầu những năm 2000. Hiện nay dân ta vẫn dùng nước Hồ bởi nước ở đây thật trong sạch, đặc biệt dùng pha trà hoặc nấu rượu thì chất lượng không nước nào sánh kịp. Lòng Hồ nằm trên nền đất sét trắng và dày, xa dân cư, gần sông nước mặn nhưng mãi ngọt lành và không bao giờ cạn. Hồ chỉ cách Giếng Thùng khoảng 100m. Thế mới biết người xưa tinh thông, phong, thủy và kế thừa, thật hoàn hảo … Đình, Chùa, Nghè Phủ, Nhà thờ, Đường Quan đá thảm, cho muôn dân hành đạo, cầu kinh, tế lễ xuân thu, thưởng ngoạn miền quê sông nước, sơn thủy hửu tình. Những di sản văn hóa làng Trần Xá là những minh chứng đầy đủ nhất đức độ của Ông Cha truyền lại cho con cháu hôm nay. Phục dựng tôn tạo và gìn giữ di sản của Tổ tiên để lại vừa là trách nhiệm vừa là biểu thị lòng tri ân của hậu thế đối với các bậc Tiền Nhân. Trong tương lai gần làng ta chắc không phải bận tâm nhiều đến cái ăn, cái mặc. Khi con người đã hướng đến thiện, mỹ, văn minh, thì những di sản văn hóa làng thực sự mới trở nên vô giá.
Nguyễn Văn Hòa
Tháng 10 - 2014